Một cách đơn giản, đối với Phật giáo, tình dục là một trong những nguyên nhân và nguồn gốc mang lại si mê, trói buộc và khổ đau.
Ngài Bhante Gunaratana sinh năm 1927 tại Tích Lan (Sri Lanka), thụ phong sa-di lúc vừa được 12 tuổi. Năm 1947, ngài được Hội Maha Bodhi gởi sang Ấn độ chăm lo cho những người thuộc tầng lớp tiện dân sống trong các vùng đô thị lớn như New Delhi và Bombay. Năm năm sau thì ngài lại được gởi sang Mã Lai để giảng dạy Phật pháp và đã lưu lại quốc gia này trong suốt mười năm.
Đến năm 1968 ngài lại được cử sang Mỹ giữ chức vụ Tổng thư ký của Hội Buddhist Vihara tại Washington DC và giảng dạy Phật pháp cho các đại học Mỹ, nhưng về sau thì có một số các đại học khác ở Gia-nã-đại, Úc châu và Âu châu biết đến và cũng đã mời ngài thuyết giảng.
Hiện nay ngài giữ chức vụ chủ tịch Hội Bhavana, đồng thời cũng là viện trưởng trụ trì Tu viện Shenandoah Valley. Ngài phụ trách giảng dạy về thiền và hướng dẫn các khóa ẩn cư cho tu viện, học viên đến từ khắp nơi trên thế giới.
Ngài viết nhiều sách rất nổi tiếng, một trong những quyển sách được biết nhiều nhất là quyển "Hành Thiền Hàng Ngày" (Mindfulness in Plain English), đây là một trong những quyển sách tốt nhất hướng dẫn về thiền Vipassana.
KÝ GIẢ SIMON ALEV CỦA TỜ "GIÁC NGỘ LÀ GÌ" (WHAT IS ENLIGHTENMENT) CỦA HOA KỲ PHỎNG VẤN MỘT NHÀ SƯ TÍCH LAN, NGÀI BHANTE GUNARATANA VỀ CHỦ ĐỀ PHẬT GIÁO VÀ TÌNH DỤC.
Simon Alev: Những người am tường Phật giáo đều hiểu rằng Đức Phật chủ trương một lối sống xa rời thế tục; và hôm nay đây, ngài là một trong số những người đã hy sinh rất nhiều thì giờ và sinh lực để quảng bá truyền thống tu tập ấy vào thế giới Tây phương. Vì lý do nào Đức Phật đã đặt nặng vấn đề trinh bạch của người tu hành? Tại sao Đức Phật lại xem điều đó quan trọng đến thế?
Bhante Gunaratana: Bởi vì bất cứ ai muốn giải thoát khỏi dukkha, tức là khỏi khổ đau, thì phải tuân thủ một số nguyên tắc đạo đức nào đó. Thật ra thì bất cứ ai muốn chọn cuộc sống của người tu hành đều phải giữ sự trinh bạch. Nếu như còn tiếp tục lăn lộn trong mọi thứ sinh hoạt tình dục thì họ có khác gì đâu với những người thế tục, họ sẽ luôn luôn bị vướng mắc vào vô số những rối rắm liên quan đến tình dục.
Bất cứ ai khao khát cuộc sống của người tu hành đều phải chọn cho mình một lối sống đơn sơ – và cũng chính vì lý do đó mà các truyền thống tu tập đã được hình thành – vì khi suy xét thật cẩn thận chúng ta sẽ nhận thấy chỉ khi nào loại bỏ được mọi ham muốn vô độ, dục vọng và thèm khát thì khi đó mới có thể tự giải thoát cho mình khỏi khổ đau.
Nếu đã quyết tâm muốn vượt lên trên mọi khổ đau thì phải loại bỏ nguyên nhân của chúng, và sự ham muốn tình dục là một trong những nguyên nhân nhất thiết sẽ mang lại khổ đau. Nếu muốn chọn một cuộc sống nơi tu viện thì phải chế ngự được sự ham muốn tình dục vì tu viện không phải là nơi nuôi dưỡng những gì có thể làm phát sinh ra sự thèm khát tình dục.
Simon Alev: Như thế thì trường hợp một người không xuất gia, tức một người thế tục sẽ khó tuân thủ sự trinh bạch, có thể nói là không thể nào thực hiện được?
Bhante Gunaratana: Kể cả những người thế tục cũng cần phải có một cuộc sống kỷ cương; họ phải biết tự kìm hãm trong một khuôn phép nào đó. Chính vì thế đã có những giới luật dành riêng cho họ. Tuy nhiên không bắt buộc những người bình thường cũng phải tôn trọng sự trinh bạch. Dù sao thì người thế tục cũng chỉ có thể đạt được giác ngộ trong một cấp bậc nào đó mà thôi – đây là trường hợp mà chúng tôi gọi chung là những người đã "bước vào dòng luân chuyển" nhưng sau đó "lại quay trở về chốn cũ" – chẳng qua vì họ không đủ sức nhận thấy những liên lụy phát sinh từ tình dục.
Tuy thế cũng có những người thế tục đã đạt được cấp bậc thánh thiện thứ ba, tức là "thể dạng không còn quay trở lại". Một thời gian ngắn sau khi đã bước vào con đường đó thì người thế tục sẽ nhận thấy qua kinh nghiệm và nhận xét của chính mình là những liên lụy với tình dục nhất định sẽ tạo ra cho họ thật nhiều khó khăn trên đường tu tập, và khi đã ý thức được điều đó thì họ sẽ tự động xa lánh những hành vi dục tính.
Sự giữ gìn trinh bạch là một thứ gì mà người ta không thể nào áp đặt bằng sức mạnh được.
Simon Alev: Nếu có thể thì xin ngài hãy trình bày cặn kẽ hơn về các chi tiết cho thấy tại sao phải vượt lên trên tình dục mới có thể thăng tiến trên đường tu tập tâm linh.
Bhante Gunaratana: Bởi vì khi nào còn vướng mắc trong đó, tâm thức ta sẽ luôn luôn bị quấy nhiễu, sẽ rơi vào u tối và hoang mang. Ta sẽ ngụp lặn trong ghen tuông, lo sợ, hận thù, căng thẳng, và những thứ đó sẽ tiếp tục lôi kéo những thứ khác nữa – tóm lại là tất cả những khó khăn phát sinh từ sự ham muốn tình dục. Vậy nếu muốn tự giải thoát khỏi những thứ ấy, trước hết phải loại bỏ những thèm khát tình dục.
Dù sao cũng có một số người không thích các chữ như "loại bỏ" mà chỉ thích dùng những chữ như "vượt lên trên" hay "biến cải". Nói như thế cũng đúng, vì ta có thể biến cải sự thèm khát tình dục thành không-còn-thèm-khát tình dục !
Simon Alev: Tuy nhiên căn cứ theo những gì ngài vừa trình bày thì phải nói là sự loại bỏ mọi ham muốn tình dục thì mới đúng, có phải như thế hay chăng?
Bhante Gunaratana: Đúng như vậy. Tuy nhiên khi nói là "loại bỏ" thì quá mạnh, quá tiêu cực và người ta thường tự hỏi "làm sao tôi có đủ sức để loại bỏ một thứ gì đó? Trong khi ấy, nếu ta nói "hãy biến cải nó thành một thứ gì khác", thì họ sẽ chấp nhận một cách dễ dàng hơn.
Simon Alev: Theo ý nghĩa những lời giảng của Đức Phật về vấn đề tình dục thì có phải đó là một thứ gì mang tính cách tiêu cực một cách nội tại?
Bhante Guanaratana: Đức Phật giảng rằng khi nào còn tự trói mình trong những hành động tình dục thì khi đó người ta vẫn chưa có thể nào chú tâm vào việc tu tập tâm linh một cách hiệu quả; nói một cách đơn giản hơn là tình dục và tu tập không thể nào đi đôi với nhau.
Tuy nhiên khi Đức Phật thuyết giảng về con đường thăng tiến tuần tự đưa đến giác ngộ thì đồng thời Ngài cũng giảng rằng những giác cảm liên quan đến tình dục và sự thèm muốn cũng hàm chứa sự thích thú trong đó. Ngài không phủ nhận sự thích thú. Tuy nhiên bạn có đủ sức hiểu được là chính cái thích thú ấy về sau sẽ biến thành khổ đau hay không? Khi cơn sốt của thèm muốn tình dục lúc ban đầu dần dần hạ xuống thì cãi vã sẽ phát sinh.
Bởi vì thèm khát tình dục sẽ làm phát sinh sự ham muốn quá độ, lo sợ, ghen tuông, hận thù, hoang mang và những cảnh ẩu đả lẫn nhau; tất cả những thứ tiêu cực ấy đều phát sinh từ sự thèm khát tình dục.
Nếu thật sự muốn nhận thấy được sự thật ấy thì cũng chẳng cần phải nhìn đâu cho xa, cứ nhìn thẳng vào xã hội mà chúng ta đang sống. Chỉ cần mở mắt thật to để nhìn chung quanh. Đã có không biết bao nhiêu triệu người từng đấm đá nhau chỉ vì nguyên nhân thèm muốn tình dục – nào chồng, nào vợ, nào bạn trai, bạn gái, bạn gái rồi lại bạn trai. Dù cho bạn thuộc vào loại người mang tính dục khác giới, hoặc đồng tính luyến ái hay lưỡng tính thì cũng chẳng quan hệ gì nhiều, vì tất cả rồi cũng sẽ hỗn chiến với nhau. Khi nào bạn vẫn còn vướng mắc trong những thèm khát ấy thì không thể nào tránh khỏi – cãi vã, thất vọng, giận dữ, hận thù, sát nhân – tất cả sẽ lôi kéo nhau mà sinh ra.
Vì thế khi Đức Phật nhìn thấy những khó khăn đi kèm với tình dục thì Ngài dạy chúng ta tốt hơn hết nên kiểm soát và khắc phục các giác quan để tìm lấy một cuộc sống thanh thản và an bình.
Tuy nhiên cần phải thực hiện từ từ, thật chậm, việc đó phải đi đôi với sự suy xét, nhất là không được đột ngột. Chuyện đó không thể gò ép được. Cần phải thực hiện với sự hiểu biết chín chắn. Nếu không hiểu được điều này mà cứ muốn ngưng ngay một cách đột ngột thì sẽ càng cảm thấy thiếu thốn và lo sợ nhiều hơn và từ đó sẽ phát sinh thêm những khó khăn khác nữa. Vì thế trong những lời giáo huấn liên quan đến cách tu tập tuần tự, Đức Phật giảng rằng lúc ban đầu tuy rằng có sự thích thú trong các sinh hoạt tình dục, nhưng sau đó sẽ sinh ra những điều bất ổn, và tiếp theo là mọi thứ khó khăn. Chỉ khi nào nhận ra được sự thật đó thì lúc ấy ta mới ý thức được những khó khăn và những gì tiêu cực đi đôi với tình dục – chúng là một thể dạng nội tại của dục tính. Các rối loạn và khó khăn ấy đều mang tính cách tự tại trong sự thèm khát tình dục.
Simon Alev: Nhất là trong thời đại chúng ta, điều ấy quả thật là hết sức căn bản.
Bhante Gunaratana: Quả đúng như thế. Tuy nhiên chỉ khi nào người ta tránh xa được những thứ ấy, xa lánh được những bài học ấy và đã đi xa hàng triệu cây số, vượt qua thời gian và không gian thì khi đó họ mới thật sự ý thức được điều ấy là căn bản – khi mà họ quay nhìn lại phía sau để nhìn thấy căn nguyên của khổ đau. Khi họ đã quay lưng ra đi từ lâu, xa lánh qua không gian và thời gian và bất chợt khi quay nhìn lại phía sau họ mới có thể thốt lên : « Hú vía ! giờ đây làm thế nào mình còn dám quay đầu lại với những thứ ấy nữa? Mình đã đi quá xa rồi, đã dấn thân quá sâu rồi ». Khi đó thì chuyện ấy mới trở thành một vấn đề căn bản đối với họ. Nhất định đấy là một vấn đề căn bản!
Simon Alev: Trong khi ngài đang nói thì tôi lại bất chợt nghĩ đến sự kiện ngài đề cập quá ít về những thích thú tình dục, và ngược lại thì ngài lại trình bày quá nhiều về những khía cạnh bất lợi, nhiều người...
Bhante Gunaratana: Vâng. Chỉ vì một chút thích thú, nhưng đã mang lại quá nhiều khổ đau, có đúng thế hay chăng?
Simon Alev: Quả là như thế!
Simon Alev: Quả là như thế!
Bhante Gunaratana: Bạn có lý. Người ta không chịu suy nghĩ. Họ chỉ muốn nghe những lời hợp ý với mình. Ngược lại thì chúng ta lại không muốn nói lên những lời mà họ thích nghe! Dù cho người nghe có thích hay không thích, thì chúng ta vẫn cứ nói lên sự thật. Chúng ta không nên sợ hãi khi nói thật. Dù cho thiên hạ có chấp nhận hay không... Thôi vậy, dù sao thì đấy cũng là một vấn đề khác rồi. Chúng ta không thể làm gì khác hơn được.
Simon Alev: Khi chúng tôi tra cứu để cố trích dẫn một vài lời giáo huấn liên quan đến cảm nghĩ của Đức Phật về vấn đề tình dục, thì bất ngờ chúng tôi lại tìm thấy một đoạn văn như sau: "Này, đừng có dại dột, (những ai đã từ bỏ gia đình), thà rằng đưa dương vật vào miệng một con rắn độc hay một con rắn hổ mang kinh tởm có lẽ còn tốt hơn là đưa nó vào một người đàn bà. Tốt hơn là đưa dương vật vào một lò nung đầy than hồng nóng bỏng, còn hơn là đưa nó vào một người đàn bà. Tại sao lại như thế ?
Trong cả hai trường hợp, có thể ta sẽ chết vì nọc độc hoặc vì đớn đau của lửa bỏng, nhưng sau khi chết và thân xác đã tan rã thì ta sẽ không còn quay lại với cái thế giới khốn khổ để mang thêm một số kiếp bất hạnh trong cảnh sa đọa và địa ngục này". (Trích dịch từ một tấm bưu thiếp của Thái Lan vào đầu thế kỷ thứ XX với tựa đề là: Địa ngục của những người có hành vi tình dục không lành mạnh).
Tôi nghĩ rằng đoạn văn trên đây phản ảnh khá minh bạch về những cảm nghĩ của Đức Phật liên quan đến tình dục. Tuy nhiên như ngài đã biết, ngày nay trong thế giới phương Tây có rất nhiều xu hướng khác nhau liên quan đến phần giáo lý cũng như các phương pháp tu tập Phật giáo, và hình như một số người Tây phương tu tập Phật giáo cũng bất đồng chính kiến giữa họ với nhau về quan điểm do Đức Phật chủ trương liên quan đến vấn đề ham muốn tình dục – và theo như ngài đã trình bày trên đây thì sự ham muốn ấy là sự biểu lộ của tham lam vô độ – cần phải vượt lên trên mới có thể đạt được Giác ngộ. Ngược lại, trong bối cảnh tự do của các xã hội Tây phương ngày nay, nhiều người có khuynh hướng nghĩ rằng tình dục là một cách biểu lộ lành mạnh và tự nhiên của con người – không những chỉ trong lãnh vực con người mà thôi mà có thể cả trong lãnh vực tâm linh nữa. Vậy ngài nghĩ như thế nào về những lời của Đức Phật về việc này?
Bhante Gunaratana: Trước khi chuyển sang đề tài khác, tôi muốn lưu ý vài lời về đoạn văn vừa trích dẫn trên đây. Bạn cũng hiểu là Đức Phật có nói đến vấn đề tình dục, tuy nhiên Ngài không phải chỉ đề cập đến sự trinh bạch của người đàn ông, mà cả của người phụ nữ nữa. Vậy trong trường hợp khi Ngài nói rằng thà nuốt một viên sắt nung đỏ còn hơn là dính líu vào những hành vi tình dục, thì phải hiểu rằng câu nói đó muốn nhắc nhở cả người phụ nữ nữa. Chúng ta cần phải xác định thật minh bạch về điểm này, nếu không sẽ làm cho người phụ nữ phật lòng nhiều lắm đấy. Họ sẽ nghĩ lầm là Đức Phật thù ghét người phụ nữ và muốn cho người đàn ông phải giữ gìn trinh bạch bằng cách lánh xa họ. Một người phụ nữ muốn giữ sự trinh bạch cũng phải lánh xa người đàn ông. Đấy là điểm mà tôi muốn làm sáng tỏ trước nhất.
Điểm thứ hai liên quan đến việc thành lập gia đình, có vợ, có con, vân vân và vân vân thì Đức Phật không hề cấm đoán; đời sống tình dục mang lại hạnh phúc trong gia đình của những người thế tục là một điều chính đáng, dù rằng điều đó, như tôi đã nói, không thể nào đưa đến Giác ngộ toàn vẹn được.
Để trả lời cho câu hỏi của bạn, không phải chỉ riêng trong các xã hội ngày nay mà cả trong thời đại Đức Phật còn tại thế, nhiều người đã từng tin rằng tình dục là một thứ gì rất thánh thiện, cao cả, thiêng liêng và mầu nhiệm. Vì thế sự kiện vừa được nêu lên trên đây không phải là một hiện tượng cá biệt của những xã hội tân tiến trong thế kỷ hai mươi. Tâm tính con người không thay đổi từ muôn thuở cho đến ngày nay, và trong tương lai cũng vẫn sẽ là như thế. Luôn luôn vẫn có người nghĩ rằng họ sẽ có thể tự giải thoát bằng tình dục, và đấy là những gì mà tôi gọi là một sự nhận thức méo mó, những ý nghĩ méo mó.
Simon Alev: Theo sự trình bày của ngài thì sự "nhận thức méo mó" đó có vẻ như đặc biệt phổ biến ngày nay, cũng như đã từng phổ biến từ ngàn xưa. Tôi chỉ muốn nêu lên khái niệm ngày càng trở nên phổ biến cho rằng nếu đưa tình dục đến điểm tột cùng thì cũng có thể xem đó như là một hình thức biểu lộ của Giác ngộ – nói theo chiều hướng đó thì tình dục cũng có thể được xem như là con đường dẫn đến giải thoát... Nếu ngài cố tình tránh né nó với bất cứ giá nào thì ngài sẽ không có một chút hy vọng nào để đạt được mục đích cuối cùng mà ngài mong muốn. Nếu có thể xin ngài chỉ dẫn thật minh bạch Đức Phật đã phát biểu ra sao về quan điểm ấy.
Bhante Ganaratana: Tôi khá thuộc lòng về điều này. Đức Phật nói rằng – đây là tôi dịch thẳng từ tiếng Pali – "Bất kể là ta có thể làm được gì hay thực hiện được gì – dù cho ta sống trong hang động hay một nơi vắng vẻ, thuộc làu tất cả kinh điển; hoặc dù cho ta là một nhà hùng biện thật thông thái, sống bằng đạo đức, hay tất cả những thứ đó kết hợp lại, vân vân và vân vân... – kể cả trường hợp ta làm được bất kể thứ gì khác cũng thế; nhưng cho đến khi nào ta chưa loại bỏ được thèm khát tình dục, hận thù và vô minh thì khi đó ta vẫn chưa có thể đạt được Giác ngộ". Đấy là những lời giáo huấn của Đức Phật.
Do đó nếu ta càng liên lụy đến các thứ sinh hoạt tình dục, thì ta lại càng bị trói buộc nhiều hơn trong sự thèm khát, càng rơi sâu hơn vào cảnh bất an và càng trở nên ghen tuông khốc liệt hơn. Bất kể đấy là trường hợp của một người đàn ông hay một người đàn bà, khi đã đắm mình trong những sinh hoạt tình dục với thật nhiều người thì người ấy cũng sẽ nhận lấy thật nhiều khổ đau, tương xứng với số người mà mình đã liên lụy và những hậu quả do chính mình tạo ra: khổ đau sẽ phát sinh từ ghen tuông, sợ hãi, căng thẳng, lo âu... Một cuộc sống như thế sẽ hết sức nguy hại.
Nếu một cá nhân nào đó liên lụy tình dục với thật nhiều mẫu người khác nhau, bằng mọi kiểu cách khác nhau, liên miên và bất tận, thì nhất định người ấy sẽ chết sớm vì những hành vi thiếu lành mạnh của mình. Đến đây, có lẽ bạn cũng đã hiểu rõ là sự sinh hoạt tình dục trong chừng mực và thận trọng không phải là một điều cấm đoán. Tuy nhiên nếu bảo đấy là cách «đạt được Giác ngộ bằng phương tiện tình dục» thì thật sự câu ấy chỉ có nghĩa là: đắm mình trong những sinh hoạt tình dục cho đến khi chết thế thôi! Và nhất định theo cách đó thì ta sẽ chết trước khi đạt được Giác ngộ!
Simon Alev: Qua các công cuộc thăm dò của chúng tôi thì chúng tôi nhận thấy khái niệm cho rằng tình dục mang tính cách thiêng liêng không những khá phổ biến ngày nay mà nhiều người thấm nhuần nền văn hóa Tây phương còn nhìn sự trinh bạch với con mắt sợ hãi và đầy ngờ vực. Theo ngài thì sự kiện ấy do đâu mà ra?
Bhante Gunaratana: Nếu như sự trinh bạch được giữ gìn một cách nghiêm túc thì người được thừa hưởng chính là người đã thực hiện được việc ấy. Bạn không thể đứng ra thành lập một học viện nghiên cứu và giảng dạy về sự trinh bạch. Sự trinh bạch không phải là một thứ gì có thể biến thành một thể chế được quy định bởi những quy tắc có tính cách tập thể. Nó không phải là một thứ gì lệ thuộc vào một tổ chức có tính cách quy mô. Không thể nào có một xã hội trinh bạch. Sự trinh bạch có tính cách hoàn toàn cá nhân và tự nguyện. Vậy, nếu có những người bài bác sự trinh bạch thì có thể chính những người ấy cũng sẽ đứng ra chống lại một tập thể chủ trương sự trinh bạch.
Simon Alev: Tuy nhiên, hình như bất cứ một ngôi chùa nào hay một học phái nào cũng thế, tất cả đều phải tuân thủ một số quy tắc nào đó. Thành thực phải nói là chúng tôi vừa thán phục lại vừa bối rối khi đọc qua những quy tắc tập luyện về Patimokkha (dịch âm là Ba-la-đề-mộc-xoa, dịch nghĩa là giới cấm, gồm một số các quy luật mà những nhà sư Phật giáo phải tuân thủ) và khám phá ra rằng Đức Phật hình như đã thiết đặt một hệ thống quy luật cấm đoán người tu hành liên hệ đến những giao du tình dục – chỉ xin nêu lên một vài thí dụ mà tôi chắc chắn là ngài đã biết – chẳng hạn những thứ như sọ người, thây ma, thú vật...
Căn cứ theo riêng sự hiểu biết của chúng tôi thì thái độ đó không còn thích nghi với thời đại ngày nay nữa – chưa kể là không nhất thiết còn đúng như thế – do đó chúng tôi tự hỏi: Đức Phật thiết lập các quy tắc như thế có đủ sức ngăn chận những gì mà người ta vẫn thường làm hay không? Trong số đó kể cả trường hợp của các người tu hành và các đệ tử của Đức Phật?
Bhante Gunaratana: Vâng. Khi Đức Phật đưa ra một quy tắc nào đó, thì các người tu hành kể cả trong thời buổi bấy giờ liền tìm ngay cách tránh né để tiếp tục thực thi như trước. Họ vẫn tiếp tục tìm cách sinh hoạt tình dục bằng cách này hay cách khác. Vì thế, khi Đức Phật đưa ra một quy tắc, họ không phá bỏ quy tắc ấy, nhưng lại tìm cách khác để tiếp tục vi phạm vào hành vi tình dục. Đức Phật lại phải đưa ra một quy tắc mới để ngăn chận. Giống hệt với trường hợp cảnh sát và những kẻ tội phạm ngày nay – khi có một đạo luật được đưa ra, thì bọn tội phạm sẽ tìm ngay cách tránh né để tiếp tục phạm pháp, và người ta lại phải đưa thêm một đạo luật mới.
Những chuyện như thế cũng đã từng xảy ra trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế. Khi số người gia nhập Tăng đoàn càng nhiều thì họ cũng bắt đầu gây ra đủ mọi thứ rắc rối, và chính vì những rắc rối ấy nên cần phải thiết lập các quy tắc. Vì thế mà các quy tắc còn lưu lại cho đến ngày nay. Không phải vì lý do muốn phòng ngừa trước mà Đức Phật đã đặt ra những quy tắc như thế.
Simon Alev: Vậy thì chúng ta đang ở trong cái thời buổi tương lai như vừa nói, và ngài đã hướng sự tu tập của ngài vào việc truyền bá lối sống xuất gia do Đức Phật chủ trương vào thế giới phương Tây, vì thế tôi cũng rất tò mò muốn biết ngài đã gặt hái được những kinh nghiệm nào trong số những người Tây phương đã tìm đến ngài để học hỏi. Những người Tây phương tân tiến ngày nay có sẵn sàng và quyết tâm xuất gia hay không?
Bhante Gunaratana: Bạn có hiểu là bạn vừa nêu lên một câu hỏi thật là chí lý hay chăng? Chúng tôi gạn lọc thật cẩn thận trước khi cho họ gia nhập vào đời sống tu viện. Chúng tôi bắt họ phải vượt qua một thời gian thử thách hai năm để xem quyết tâm của họ có chín chắn hay chưa. Bởi vì đôi khi cũng có một số người chỉ muốn đến đây để tìm sự vui thích, hoặc để tìm sự thanh tịnh và an bình trong cảnh giới tu hành của chúng tôi, vân vân và vân vân, họ nghĩ rằng họ có thể lưu lại lâu dài để trở thành những nhà tu hành thật sự. Nhưng thật ra sau đó thì họ đổi ý. Chúng tôi không muốn đùa bỡn với cái trò ấy mà chỉ muốn duyệt xét xem họ có thành tâm hay không. Nếu như họ thành tâm thì chúng tôi chấp nhận.
Tuy nhiên số người đó không đông đảo gì. Có nhiều người đến tận đây, và cũng có nhiều người viết thư – và gần đây hơn thì họ dùng email – khẩn thiết xin chúng tôi được gia nhập vào đời sống tu viện trong mục đích tu tập để trở thành những nhà sư như chúng tôi. Tuy nhiên chúng tôi không chấp thuận đồng loạt cho tất cả, vì chúng tôi hiểu rằng sau đó phần lớn sẽ lơi là và không còn giữ được sự nhiệt thành như lúc ban đầu.
Tuy nhiên vẫn có một số người rất thực tâm muốn trở thành các nhà sư hay ni cô. Đấy cũng chẳng phải là một điều gì mới lạ. Từ những thời xa xưa cũng thế mà thôi, trong số hàng triệu người thì chỉ có một số nhỏ xuất gia để vào chùa tu hành. Trong các nước Phật giáo ngày nay cũng vậy, đâu phải tất cả mọi người đều xuất gia để vào chùa. Một vài quốc gia như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, và vân vân..., dân chúng có truyền thống xuất gia và vào chùa trong một thời gian ngắn. Đối với những người vào chùa ngắn hạn trên đây thì hầu hết đều cởi áo sau đó và trở về cuộc sống thế tục. Chỉ còn lại một nhóm rất ít mà thôi.
Các nước Tây phương không có truyền thống giống như thế, vì vậy mà số người xin vào chùa lại còn ít hơn nữa. Và trong số này, những người lưu lại lâu dài để tiếp tục tu hành lại còn hiếm hoi hơn gấp bội. Quả là như thế, sự kiện ấy khá giống nhau trên toàn thế giới, và từ xưa đến nay cũng vẫn thế mà thôi. Trong thế giới Tây phương con người ngày càng trở nên mệt mỏi dưới các áp lực của xã hội – quả thật những áp lực ấy hết sức nặng nề – và vì thế mà họ muốn xa lánh xã hội. Chúng tôi thành lập Trung tâm tu tập này cũng vì sự kiện đó, và thật ra từ xưa đến nay ở đâu cũng thế.
Simon Alev: Tôi muốn được biết thêm đôi chút về ngài, nhất là cuộc sống của một nhà sư như ngài. Chẳng hạn như việc giữ gìn sự trinh bạch đã ảnh hưởng như thế nào đến sự thăng tiến tinh thần trong việc tu tập của chính ngài?
Bhante Gunaratana: Này anh bạn của tôi ơi, chuyện đó đã mang lại cho tôi một sự an bình kỳ diệu. Tôi nói với tất cả sự thành thực đấy nhé. Bởi vì tôi có thể sống chung với tất cả chúng sinh mà chẳng có vấn đề gì cả. Không riêng gì đối với một người đàn bà nào, không riêng gì đối với một phụ nữ nào, không riêng gì đối với một cậu trai nào, hay một người đàn ông nào cả, bởi vì sự trinh bạch của tôi đã giúp cho tôi đối xử giống như nhau đối với tất cả chúng sinh.
Và điều đó đã giúp tôi tìm thấy một tâm thức an bình. Và tôi cũng tự nghĩ rằng có lẽ Đức Phật cũng mong muốn cho mỗi người trong chúng ta thực hiện được điều ấy – tức là một mối giây thân thiện, an bình với tất cả chúng sinh.
Chính vì thế mà việc ấy đã ảnh hưởng một cách tích cực vào cuộc sống của chính tôi.
Simon Alev: Tôi hiểu rằng ngài chọn cuộc sống của một người tu hành từ khi ngài được...
Bhante Gunaratana: Mười hai tuổi. Và hôm nay tôi đã bảy mươi bảy tuổi. Tôi đã khoác lên người chiếc áo cà-sa này trong suốt sáu mươi lăm năm!
Simon Alev: Nếu có một người nào đó muốn giữ gìn sự trinh bạch trên đường tu tập thì ngài sẽ khuyên họ như thế nào?
Bhante Guanaratana: Tôi sẽ khuyên người ấy rằng: "Nếu bạn ước muốn một cách lương thiện và thành thật được sống một cuộc sống an bình, có ý thức và trách nhiệm, một cuộc sống không bị rối rắm, một cuộc sống hy sinh cho tất cả mọi người không phân biệt bất cứ ai, thì cuộc sống trinh bạch sẽ là một cuộc sống tốt nhất, bởi vì khi giữ được sự trinh bạch thì ta mới có thể phát lộ được sự trìu mến và yêu thương đích thực, lòng từ bi đích thực. Lúc đó ta mới có đủ khả năng yêu mến bất cứ thứ gì hiển hiện ra trước mắt ta. Và ta mới có thể tạo được một tâm thức bình thản và không lệch lạc. Nếu ta còn bị vướng mắc vào người này hay người khác thì ta sẽ không thể nào thực hiện được những gì như vừa được nêu lên. Vì thế, nếu như bạn là một người ước mong thành thực và lương thiện muốn thực hiện cho được những điều vừa kể trên đây thì tốt nhất nên nghĩ ngay đến việc giữ gìn trinh bạch".
Tuy nhiên không bao giờ nên giữ gìn sự trinh bạch như là một thứ đức tin, hoặc là một thứ gì do người khác bắt buộc và áp đặt cho mình. Cần phải ý thức một cách nghiêm túc, và nhất là phải nghĩ đến vấn đề trinh bạch thật cẩn thận trước khi chấp nhận nó.
Simon Alev: Có nghĩa là chấp nhận điều đó với hai mắt mở to.
Bhante Gunaratana: Đúng như thế.
Simon Alev: Và người đó sẽ phải đương đầu với thật nhiều thử thách?
Bhante Gunaratana: Nhất định là như thế. Khi muốn giữ gìn sự trinh bạch thì luôn luôn phải đối đầu với mọi thử thách. Tất nhiên sẽ có nhiều người muốn giây giướng với ta, họ muốn gần ta và làm cho ta khó giữ được những lời nguyện. Chẳng qua vì họ hiểu rằng ta không phải là thứ người hư đốn, không phải là hạng người bỡn cợt, vì ta không gian díu với những gì xấu xa và không vướng vào mọi thứ bịnh tật và các thứ khác nữa. Mọi người đều hiểu ta là hạng người đoan trang và minh bạch. Thường thì vẫn có nhiều người thích gần gũi với những ai minh bạch, và chính đó là một thử thách.
Phải đương đầu là như thế đó.
Simon Alev: Ngài nói rằng ngài đã tuân thủ quy tắc trinh bạch đã sáu mươi lăm năm. Vậy những kinh nghiệm của ngài về việc giữ giới ấy đã biến đổi như thế nào, chúng có trở nên sâu sắc hơn qua thời gian hay không?
Bhante Gunaratana: Bạn có biết không, giai đoạn đầu hết sức khó khăn. Nhất là vào thời kỳ tôi còn trẻ, từ thời niên thiếu cho đến khi tôi hai mươi tuổi, đó thật là một sự thử thách lớn lao. Tuy nhiên nhờ vào tu tập tôi đã phát huy được tinh thần trách nhiệm trước bổn phận của tôi, sứ mạng của tôi, và lời nguyện ước của tôi trước Phật pháp, và nhất là còn một lý do khác quan trọng hơn thế nữa, ấy là sự kính trọng đối với các vị thầy và cha mẹ tôi. Tôi rất thương các bậc giáo huấn và cha mẹ tôi, vì thế mà tôi không muốn phản bội và đánh mất sự kính trọng của tôi đối với họ.
Tình trạng đó kéo dài trong nhiều năm trước khi tôi hoàn toàn trở thành chín chắn. Chính là như thế đó, tôi đã tự khám phá ra cho tôi cái ý nghĩa sâu xa của sự trinh bạch.
Ký giả Simon Alev
Báo Giác ngộ là gì (What is Enlightenment), Hoa KỳTheo Người đưa tin
Diệp Thanh (lược dịch, tổng hợp theo tư liệu nước ngoài)
Bản tiếng Anh: SEX, CELIBACY and the SPIRITUAL LIFE, Bhante Henepola Gunaratana
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét