Anh nhìn thẳng vào mắt tôi, nói rõ từng tiếng: “Nếu anh thương hại tôi
thì xin mời hãy ra về. Ước mơ chính là đôi chân của tôi. Và tôi làm việc
có nghĩa là tôi đang sống”. Người cháu tật nguyền của chí sĩ yêu nước
Phan Chu Trinh đã mở đầu buổi trò chuyện với tôi như thế. Anh nói anh
rất ghét sự đổ lỗi, và không hiểu sao bây giờ người ta hay tìm kiếm một
lý do gì đó để đổ lỗi cho thất bại của mình...
Việt Báo (Theo_TuoiTre)
Tuổi thơ bất hạnh
Hà Nội, một chiều đông rét buốt. Khách bộ hành co ro
trong áo ấm vội rảo bước trên những con đường nhớp nháp vì mưa phùn.
Trong căn phòng nhỏ nằm khuất sâu ở khu nhà Kim Liên, Đống Đa, một người
đàn ông đang ngồi trầm tư với cuốn sách “Đạo của vật lý”. Một không
gian trầm lặng, xa hẳn thế giới ồn ào, tất bật ngay bên ngoài song
cửa... là một người đàn ông tóc tai, râu ria
lởm chởm: Nguyễn Trung. Anh đã đi vòng quanh nhiều nước trên thế giới
để kể chuyện đời mình và cất lên thông điệp từ trái tim của những người
bất hạnh.
...Anh sinh ra ở miền đất cằn cỗi Điện Bàn, Quảng Nam.
Cha bế anh trên tay, nhìn ngắm gương mặt góc cạnh và ánh mắt tròn to của
con rồi nói: “Đời con có lẽ rồi sẽ khá hơn cha...”. Nhưng hình như số
phận lại thường trêu ngươi dự đoán. Năm 2 tuổi, anh bị một trận sốt li
bì, dấu hiệu của bệnh bại liệt ở trẻ em và nó đã cướp đi chức năng đôi
chân của anh trong hoàn cảnh thiếu thốn thuốc men.
Rồi cha mẹ bế anh tập kết ra Bắc. Cuộc sống nối tiếp
khó khăn, nhưng mẹ anh đã đúng khi quyết định cho anh đến trường bằng
mọi giá. Xe lăn không có, cha đi nhặt nhạnh từng thanh sắt, mảnh gỗ, rồi
đêm đêm cặm cụi ngồi chế cho anh. Đến được trường, nhưng không qua được
các bậu cửa, bậc thang, thầy cô và bạn bè phải thay nhau cõng anh.
Chính những tấm tình và hành động này đã đem lại tình yêu trong tâm hồn
trầm uất.
Anh học hành đứng đầu lớp nhưng cũng nghịch lắm. Rồi
một hôm thầy dạy sử kêu anh ở lại lớp một mình với thầy. Hai người cứ
ngồi đối diện nhìn nhau, không ai hé miệng một lời. Mãi cuối cùng, thầy
mới cất giọng ấm áp nói: “Rất nhiều người lành lặn chân tay nhưng thật
ra là đang tàn phế. Đầu óc của họ không đi xa hơn được mái nhà, một việc
làm...”.
Thật tình lúc ấy anh không đủ sức hiểu hết lời thầy,
nhưng rồi dần dần cũng cảm nghiệm được một điều gì đó. Anh lao vào học
hành đọc sách, khám phá điều mới lạ khắp các phương trời với những
chuyến phiêu lưu kỳ thú của riêng mình. Hết phổ thông, năm 1968 anh
quyết định thi vào đại học khoa ngoại ngữ một phần cũng vì niềm đam mê
này.
Lần đầu tiên được đọc cuốn Những người khốn khổ và Không gia đình,
anh xúc động đến không thể ngủ được. Anh thấy mình dù sao cũng may mắn
hơn những nhân vật trong sách rất nhiều vì còn có Tổ quốc, gia đình và
bạn bè để yêu thương, chia sẻ. Anh cũng cảm phục đoạn kết của sách,
những con người dù trong tuyệt vọng vẫn vươn lên chính mình...
Những ngày thử thách
Anh chọn ngôn ngữ chính là tiếng Nga, học thêm tiếng
Anh, Pháp, và ra trường với kết quả giỏi. Tuy nhiên, thử thách bắt đầu
ập đến. Lúc ấy, các sinh viên miền Bắc ra trường không có khái niệm đi
xin việc mà là được phân công. Đối với anh mọi chuyện đều khác hẳn. Mặc
dù nhà trường cũng cảm thông, viết giấy giới thiệu gởi anh đến Ủy ban Khoa học kỹ thuật VN và một số viện nghiên cứu.
Nhưng anh chưa kịp xuất trình giấy tờ đã nhận được
những cái lắc đầu lạnh lùng, “phải lê lết như cậu làm sao đảm nhiệm nổi
công việc ở những nơi quan trọng này”. Một hôm, thủ trưởng Thư viện Khoa
học kỹ thuật đồng ý ngồi lắng nghe nguyện vọng của anh xin về làm ở
phòng thư mục nhưng rồi ông không thể xây thêm một cái dốc cầu thang để
anh có thể rướn xe lăn lên.
Năng lực có, nhiệt huyết tràn đầy, nhưng không thể đi
làm được vì thiếu đôi chân, anh đâm ra quẫn trí như bao bạn bè lúc đó.
Một đêm đông trong trạng thái tuyệt vọng anh đã lăn xe ra cầu Long Biên,
nhìn xuống sông Hồng đen ngòm cuồn cuộn chảy...
Nhưng cuối cùng tình yêu cuộc sống đã chiến thắng. Anh nhớ lời thầy tâm sự, nhớ Những người khốn khổ. Và trong phút tối tăm ấy, anh chợt loé lên một con đường... Về nhà, anh lao vào dịch sách. Liên tiếp ra đời những cuốn Cuộc sống và ước mơ của tác giả Nga O. Seckov, rồi Bạn hay thù của Bella Dijur... và hàng chục tập sách về khoa học phổ thông do anh dịch.
Lãnh đạo các nhà xuất bản Thanh Niên, Kim Đồng đã rất
bất ngờ khi một chàng trai nhỏ thó, ngồi xe lăn đến gõ cửa, thẳng thắn
đề nghị được in sách. Sau đó, họ lại đâm quí dịch giả trẻ tật nguyền,
nhưng có tốc độ làm việc rất nhanh và văn phong chuẩn xác, gãy gọn này.
Lần đầu tiên được cầm 275 đồng tiền nhuận bút cuốn Bạn hay thù
trong khi mức lương trung bình lúc ấy là 45 đồng, anh đã rơi nước mắt
vì mừng. “Từ đây, ta không còn là kẻ thừa thãi, bên lề xã hội nữa!”.
Vừa dịch sách, anh vừa dịch thêm cả kịch bản phim Nga
cho Đài truyền hình Hà Nội. Rồi tranh thủ thời gian anh đi học thêm nghề
cơ khí, sửa xe, chụp ảnh, làm buồng tối. Anh hiểu rõ những khó khăn
trong cuộc sống của người khuyết tật và muốn trong hoàn cảnh nào mình
cũng tồn tại được...
Năm 1975 đất nước thống nhất, anh tình nguyện vào Đà
Nẵng theo tiếng gọi những người con đi xa hãy trở lại xây dựng quê
hương. Tuy nhiên, thử thách vẫn tiếp tục khi các cánh cửa việc làm đều
không mở ra đối với anh. Sau đó, Đà Nẵng lập Ban khoa học - kỹ thuật có
nhờ anh dịch hộ một số tài liệu.
Họ rất phục khả năng của anh nhưng vẫn không nhận. Thậm
chí có người còn nói thẳng: “Trên có chủ trương không nhận người khuyết
tật vào làm việc ở các cơ quan nhà nước”. Thất vọng, nhưng không tin có
chủ trương nghiệt ngã này, anh lăn xe đi gõ cửa các đồng chí cấp cao,
kể cả ở Hà Nội để hỏi “cho ra lẽ”. Mọi người ngạc nhiên trả lời không hề
biết có chuyện đó và tỏ vẻ thông cảm. Còn anh thì vẫn tiếp tục thất
nghiệp...
Đầu năm 1978, trong lúc anh cứ mòn mỏi “làm hộ”, không
lương thì Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch vào công tác Đà Nẵng.
Tranh thủ buổi tối, ông ghé thăm nhà anh vì biết ông ngoại của anh là
chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh.
Nhìn chàng trai khuyết tật đốt đèn dầu, cặm cụi ngồi
giữa núi sách, tài liệu ngoại văn, ông rất xúc động. “Tôi sẽ nhận con
vào làm, nhưng tôi khẳng định vẫn coi con như người bình thường. Nếu con
không đáp ứng được yêu cầu thì chính tôi sẽ đuổi con ngay...”.
Anh không trả lời, chỉ nhìn thẳng vào mắt ông Thạch bởi
anh đã nghe quá nhiều lời hứa. Thế nhưng vài tháng sau, chính ông Thạch
đã viết thư tay gọi anh ra. Ngày đầu tiên được làm việc chính thức
trong Ban thông tin của Viện Quan hệ quốc tế, anh lâng lâng như sống trên mây. “Mọi người đã coi ta là một con người”.
Thế rồi anh vừa làm vừa học tiếp. Kỷ niệm nhất là
chuyện anh tiếp cận với khoa học vi tính. Khi ấy, máy vi tính còn là cái
gì kinh khủng lắm. Tiếng là cơ quan của Bộ Ngoại giao nhưng cả viện
không có một máy tính nào.
Khi ngài đại sứ Tây Đức miễn nhiệm về nước tặng viện
một máy vi tính đen trắng cũ, mọi người mừng húm, xếp hàng đăng ký để
được học thực tế trên máy này. Anh đăng ký đầu tiên nhưng trong bảy
người được “sờ” đến nó lại không có tên anh. Ông trưởng phòng chỉ trả
lời ngắn gọn: “Cậu tàn tật như thế học cái này để làm gì”. Thật sự thất
vọng, anh lặng lẽ ra ngoài tự học. Và sau đó anh lại là một trong những
người giỏi vi tính đầu tiên ở cơ quan.
Thông điệp “tình yêu cuộc sống”...
Những ngày được làm việc ở Viện Quan hệ quốc tế như là
bước ngoặt lớn nhất của đời anh. Tự tin hơn, anh vui vẻ với mọi người và
mạnh dạn hòa nhập với xã hội. Cũng chính giai đoạn này đã giúp anh có
điều kiện tiếp cận với nhiều người khuyết tật và thật sự đồng cảm với
họ. Cùng với một số bạn bè, anh đồng sáng lập nhóm “Vì tương lai tươi
sáng”.
Mục tiêu của nhóm là giúp đỡ những người khuyết tật
thoát khỏi khó khăn về tinh thần, vật chất, trong đó bao gồm cả dạy tin
học, ngoại ngữ và chính anh cũng làm giáo viên... Sau đó, anh gia nhập
thêm nhóm “Tiếp cận” để có nhiều điều kiện giúp đỡ các số phận bất hạnh
hơn. Ngoài ra, anh còn tham gia dự án “Nâng cao chất lượng sống cho
người khuyết tật”...
Vừa làm việc ở Viện Quan hệ quốc tế, vừa hoạt động cộng
đồng, nhưng đến năm 1998 anh mở thêm xưởng chế tạo xe lăn tại nhà và
làm giám đốc, kiêm kỹ sư, kiêm... công nhân. Mỗi ngày anh chỉ có vài
tiếng ngắn ngủi để nghỉ ngơi. Tóc tai, râu ria anh lúc nào cũng lởm
chởm, còn nước da xanh mét với đôi mắt trũng sâu.
Người có điều kiện thì anh bán để lấy tiền bù vào những
chiếc tặng người khó khăn... Thế rồi, các tổ chức quốc tế biết việc làm
của anh và bạn bè. Họ liên tiếp mời anh đi các nước, sinh hoạt cộng
đồng với người khuyết tật, rút kết các kinh nghiệm tồn tại và niềm tin
cuộc sống trong hoàn cảnh khó khăn...
Anh kể kỷ niệm nhất là tiếng cười luôn tràn ngập trong
những chuyến đi. Chia sẻ từng niềm vui nỗi buồn, những con người bất
hạnh cùng nhắc nhở nhau: “Thà đốt lên một que diêm còn hơn cứ ngồi
nguyền rủa bóng tối”...
QUỐC VIỆT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét