29/4/14

Trịnhcông Sơn Khảo luận

 Con  Người  Gây  Tranh  Cãi

Trong chiến tranh và sau Chiến Tranh Việt Nam, con người nổi tiếng nhất trên lãnh vực nghệ thuật lại là con người gây nhiều tranh cãi trên lãnh vực chính trị, nhất giữa những người ở hai bên chiến tuyến đối nghịch, đó là Trịnh Công Sơn. Sự tranh cãi đã gia tăng khi mới đây Trịnh Cung và Liên Thành đã đưa ra ánh sáng một số bí mật mới liên quan đến cuộc đời chính trị của Trịnh Công Sơn. Sự tranh cãi đã lên cao khi có sự can thiệp của nhà cầm quyền Việt Nam.
Ngày 13/8/2009, UBND tỉnh Bình Định đã ra quyết định đình chỉ phát hành cuốn sách "Trịnh Công Sơn - Vết Chân Dã Tràng" của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thúy, bút hiệu là Ban Mai, vì lý do cuốn sách này Vi Phạm Luật Xuất Bản.
Tin tức cho biết, theo sự đánh giá của hội đồng thẩm định địa phương, tác phẩm này “có nội dung thiếu khách quan; xuyên tạc sự thật lịch sử; xúc phạm những trí thức, nhạc sĩ khác...”UBND tỉnh Bình Định cũng đề nghị xem xét, xử lý vi phạm của NXB Lao Động, Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông-Tây về việc ấn hành tác phẩm này.
Được biết, cuốn sách “Trịnh Công Sơn - Vết Chân Dã Tràng” đã được Nhà Xuất Bản Lao Động và Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông-Tây xuất bản từ tháng 8/2008, nhưng đến nay mới được nhà cầm quyền nêu lên. Sự phê phán được tập trung vào Chương IV của cuốn sách dưới đề tựa "Trịnh Công Sơn và Chiến Tranh Việt Nam", trong đó trích lại hầu hết những lời ca của Trịnh Công Sơn liên quan đến Cuộc Chiến Việt Nam, chẳng hạn như:
   Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu,
   Một trăm năm nô lệ giặc Tây,
   Hai mươi năm nội chiến từng ngày...
hay
   Với da vàng Việt nam vỡ nát,
   Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng,
Với những câu nhận định của tác giả Ban Mai như:  "Cho đến ngày nay, quan điểm về tên gọi cuộc chiến vẫn là điều tranh cãi", "Cái bi thảm nhất là ở chỗ:  Cùng là người Việt Nam, nhưng người Việt lại bắn giết người Việt"... Tác giả còn đi xa hơn khi đặt câu hỏi:  “Thân phận da vàng người Việt ngày nay đã thực sự thoát đời nô lệ ngoại bang chưa?"...
Một bài báo đăng trên nhật báo Nhân Dân của Đảng CSVN đã viết rằng cuốn sách "phỉ báng xương máu của bao thế hệ cha anh đã ngã xuống tô thắm nền hòa bình của đất Việt".
Trước khi bàn về tác phẩm của tác giải Ban Mai, chúng tôi xin trình bày lại rõ ràng hơn tiểu sử của Trịnh Công Sơn và những bí mật về sự dính líu của ông vào cả hai bên đối đầu trong Cuộc Chiến Việt Nam, vì đây là những điểm then chốt đã đưa tới những tranh cãi.

VÀI NÉT VỀ TRỊNH CÔNG SƠN.
Vì tiểu sử Trịnh Công Sơn không có gì “Oanh Liệt” và dính líu quá nhiều đến VNCH nên các bài và sách trong nước khi viết về tiểu sử Trịnh Công Sơn thường cố gắng đơn giản hoá, “Huyền Thoại Hoá” và bịa đặt thêm để tô điểm cho Trịnh Công Sơn. Đa số đã mô tả về tiểu sử Trịnh Công Sơn gióng hệt nhau như sau:
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 tại Lạc Giao, tỉnh Dak Lak. Ông lớn lên ở Huế, tốt nghiệp tú tài ban Triết tại Chasseloup Laubat, Sài Gòn, tốt Nghiệp Đại Học Sư Phạm (Khoa Triết Học) tại Quy Nhơn. Sau đó ông trốn lính, vào Bảo Lộc tỉnh Lâm Đồng và làm nghề dạy học.
Chỉ một đoạn ngắn này thôi cũng đã sai quá nhiều chỗ:  Trịnh Công Sơn không hề học trường Chasseloup Laubat, không hề tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Quy Nhơn, vì lúc đó Quy Nhơn chưa có trường Đại Học và dù Quy Nhơn có trường Đại Học đi nữa, Trịnh Công Sơn cũng không vào được vì Trịnh Công Sơn chưa hề có Tú Tài Toàn Phần. Trịnh Công Sơn cũng không hề trốn lính lên Bảo Lộc dạy học.
Trịnh Công Sơn sinh vào giờ Thìn, ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Mão, tức ngày 28/2/1939, tại xã Lạc Giao (nay là phường Thống Nhất, Ban Mê Thuột), tỉnh Dak Lak.
Năm 1943 Trịnh Công Sơn theo gia đình chuyển về Huế. Ông học trường tiểu học Nam Giao (nay là Trường An), sau đó vào học trường Pellerin của các Sư Huynh dòng La San (Institut des Frères des écoles chrétiennes do Saint Jean-Baptiste de La Salle lập), rồi qua học trường Thiên Hựu (Institut de la Providence) của Hội Thừa Sai Paris (Société des Missions Étrangères de Paris) ở Huế. Đây là hai trường nổi tiếng ở Huế, dạy chương trình Pháp, nhưng Trịnh Công Sơn chỉ mới lấy được bằng Tú Tài I (tức Tú Tài Bán Phần) rồi ngưng học.
Năm 1962, Trường Sư Phạm Quy Nhơn được thành lập để đào tạo hàng loạt những Giáo Học Bổ Túc, cung ứng cho các tỉnh thuộc Vùng II. Tiêu chuẩn tối thiểu để nộp đơn là bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp. Có hai loại khoá học:  “Khoá Thường Xuyên" học hai năm và "Khóa Cấp Tốc", học một năm. Khi ra trường, đa số được bổ đi dạy tại các trường tiểu học ở các vùng quê. Trịnh Công Sơn đã thi đậu vào khoá đầu tiên (khoá 1) của trường này. Sĩ số giáo sinh là ba trăm người. Đa số là người Huế, chiếm khoảng 60%. Số còn lại thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Đà Lạt, Lâm Đồng, PleiKu, KonTum. Khoá 1 khai giảng ngày 22/4/1962. Ông Bùi Khương, cùng học khoá 1 với Trịnh Công Sơn, cho biết khóa 1 đã ra trường cấp tốc chỉ sau một năm thụ huấn.
Những người cùng học khoá 1 với Trịnh Công Sơn ở Trường Sư Phạm Quy Nhơn có kể lại một số sinh hoạt của Trịnh Công Sơn tại trường nầy như sau:
Lúc đó, Trịnh Công Sơn say mê sáng tác và lưu tâm nhiều đến phối khí hòa âm. Chính trong thời gian này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác bài "Biển Nhớ" và trường ca “Dã Tràng Xe Cát”.
Mùa Giáng sinh 1962, Trịnh Công Sơn đã cùng với một số bạn bè thành lập một ban Kích Động Nhạc để vui chơi và thử nghiệm. Trong thời gian học ở trường Pellerin và Thiên Hựu, Trịnh Công Sơn đã chịu ảnh hưởng khá nhiều của loại nhạc plain chant (bình ca) và chorale (hợp xướng) của Công Giáo. Do đó, theo yêu cầu của nhà trường và cũng vì muốn thử sức mình trong lãnh vực này, Trịnh Công Sơn đã phối hợp với các sinh viên trường Sư Phạm Ghềnh Ráng thành lập một Ban Hợp Xướng trình diễn trong dịp lễ Giáng Sinh.
Tốt nghiệp khoá 1 Trường Sư Phạm Quy Nhơn, Trịnh Công Sơn được bổ nhiệm đi dạy học ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau đó Trịnh Công Sơn làm hiệu trưởng một trường tiểu học ở Bảo Lộc.
Trước 30/4/1975, tại Quy Nhơn không hề có trường Đại Học nào. Trường Đại Học Sư Phạm Quy Nhơn mới được nhà cầm quyền CSVN thành lập năm 1977 với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên trung học phổ thông cho các tỉnh khu vực Duyên Hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Như vậy không thể có chuyện Trịnh Công Sơn học Trường Đại Học Sư Phạm Quy Nhơn Ban Triết.
Ngày 5/12/2003, Trường Đại Học Sư Phạm Quy Nhơn được đổi thành Trường Đại Học Quy Nhơn.

DÍNH LÍU VÀO CHÍNH TRỊ.
Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, phong trào đấu tranh của Phật Giáo để tiến tới nắm chính quyền ngày càng lên mạnh, trong đó các bạn bè của Trịnh Công Sơn ở Huế đang đóng vai trò then chốt trong chiến dịch này, dưới quyền lãnh đạo của hai Thượng Toạ Thích Trí Quang và Thích Thiện Minh. Do đó, năm 1965 Trịnh Công Sơn đã tự ý bỏ dạy học, trở về Huế hoạt động.
Đám bạn bè chính của Trịnh Công Sơn đang hoạt động chống chính phủ VNCH lúc đó gồm có Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Thái Ngọc San, Chu Sơn, Đỗ Long Vân, Nguyễn Văn, Lê Tử Thành, Bửu Ý, Nguyễn Tuấn Khanh, Phan Duy Nhân, Lê Hiếu Đằng... Trong đám bạn bè và “Chiến Hữu” này có hai người thân nhất và có ảnh hưởng nhiều nhất đối với Trịnh Công Sơn nhất là Ngô Kha và Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đầu tháng 4/1966, khi nghe tin chính phủ Nguyễn Cao Kỳ đưa quân ra Đà Nẵng dẹp loạn, theo lệnh của Thượng Tọa Thích Trí Quang, ngày 5/4/1966 “Đoàn Thanh Niên Quyết Tử” được thành lập, lúc đầu gồm 66 sinh viên, do Nguyễn Đắc Xuân, sinh viên Đại Học Sư Phạm Huế làm Đoàn Trưởng. Ngày 8/4/1966, một bộ phận của đoàn này được gởi vào chi viện cho Đà Nẵng. Theo Thiếu Tá Liên Thành, cựu Trưởng Ty Cảnh Sát Huế, chính Đoàn Thanh Niên Quyết Tử này đã phá kho súng của 2 Ty Cảnh Sát Quảng Trị và Huế, lấy khoảng 4000 ngàn súng gồm tiểu liên, Shotgun, và súng lục, 120 thùng lựu đạn M 26, khoảng 100 xe Jeep Cảnh Sát và toàn bộ máy móc truyền tin rồi dùng xe, máy móc truyền tin và súng của Cảnh Sát tuần tiểu và canh gác trong thành phố. Cũng chính đoàn này về sau, đã theo lệnh Thích Trí Quang, đưa hàng trăm bàn thờ xuống đường.
Theo lời kêu gọi của Thích Trí Quang, gần nửa Quân Nhân Phật tử thuộc Sư Đoàn I Bô Binh, các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân đã buông súng trở về thành phố tham gia cuộc nổi loạn. Đầu tháng 5/1966, Ngô Kha đã tập hợp các Quân Nhân Ly Khai này lại thành một tổ chức mang tên “Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức” để chống lại chính quyền.

BỊ ĐẨY VỀ PHÍA KẺ THÙ.
Những nỗ lực tạo bạo loạn để cuớp chính quyền của nhóm Thích Trí Quang đã bị Quân Đôi VNCH dẹp tan, Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang liền đứng hẵn về phe Mặt Trận Giải Phóng MiềnNam. Nhiều thành phần chủ chốt trong nhóm tranh đấu của Thích Trí Quang đã bỏ thành phố đi vào Chiến Khu theo Việt Cộng, chẳng hạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường (dạy học), Hoàng Phủ Ngọc Phan (SV Y Khoa), Nguyễn Đắc Xuân (SV Đại Học Sư Phạm), Trần Quang Long (SV Đại Học Sư Phạm), Lê Minh Trường (Sinh Viên Mỹ Thuật), Huỳnh Sơn Trà (SV Y Khoa), Nguyễn Văn Sơ (SV Đại Học Sư Phạm), Ngô Yên Thi (SV Văn Khoa), Trần Bá Chữ (SV Đại Học Sư Phạm) v.v. Đa số còn lại bị Cơ Quan An Ninh VNCH bắt giữ, một số ẩn trốn trong quần chúng.
Theo cựu Thiếu Tá Liên Thành, Cảnh Sát Huế đã khám phá ra Trịnh Công Sơn là một trong những người đã giúp đưa hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường (Giáo Sư Trường Quốc Học) và Hoàng Phủ Ngọc Phan (SV Y Khoa) vào chiến khu. Hai tên này đã từ nhà sách Khánh Quỳnh đến nhà tên Nguyễn Chính, một cán bộ Cộng Sản, ở đường Nguyễn Trường Tộ, bên này cầu Phủ Cam, rồi sau đó qua nhà Trịnh Công Sơn ở bên kia cầu Phủ Cam. Lê Cảnh Đạm, lúc đó đang làm Tổng Thư Ký Đại Học Y Khoa Huế, với sự hộ tống của Tôn Thất Dương Tiềm, đã lái chiếc xe màu trắng của bà Tuần Chi (nguyên hiệu trưởng trường Đồng Khánh) đến đón Tường và Phan lên chùa Thiên Mụ rồi từ đó, đi bộ vượt Long Hồ, Ngọc Hồ, vượt nguồn tả Sông Huơng đến mật khu sau núi Kim Phụng.

LỆ THUỘC VÀO ĐÀN ANH.
Như chúng tôi đã nói ở trên, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ngô Kha là hai người thân nhất và có ảnh hưởng nhất đối với Trịnh Công Sơn, cả hai đã trở thành cán bộ Cộng Sản, một tên hoạt động trong chiến khu còn một tên hoạt động nội thành.
1.- Hoàng Phủ Ngọc Tường:  Quê xã Triệu Long, huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị, sinh ngày 9/9/1937 tại thành phố Huế. Ông học hết bậc trung học ở Huế rồi vào Sài Gòn học khóa I Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, ban Việt Hán, và tốt nghiệp năm 1960. Trở về Huế, ông dạy triết ở trường Quốc Học và học Đại Học Văn Khoa Huế. Năm 1964, ông đậu Cử Nhân Triết.
Sau khi cuộc nổi loạn của nhóm Thích Trí Quang bị dẹp tan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đi vào chiến khu và được giao nhiệm vụ viết báo ở Ban Tuyến Huấn Thành Uỷ Huế.
Trong biến cố Tết Mậu Thân, Hà Nội cho thành lập Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hoà Bình do giáo sư Lê Văn Hảo làm chủ tịch, Hoà Thượng Thích Đôn Hậu và bà Tuần Chi làm phó chủ tịch, Hoàng Phủ Ngọc Tường làm tổng thư ký. Những người này được đưa tới Chỉ Huy Sở Tiền Phương của Mặt Trận Huế ở núi Kim Phụng, phía tây Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường được giao phụ trách viết “Lời Hiệu Triệu” của Liên Minh, thu băng và đem phát thanh trên các đường phố Huế. “Lời Hiệu Triệu” kêu gọi quần chúng nổi dậy.
Nhiều nhân chứng cho biết Hoàng Phủ Ngọc Tường là người chủ trì các phiên xử tại trường tiểu học Gia Hội, tuyên án tử hình rất nhiều người. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường phủ nhận điều này và nói rằng lúc đó ông đang ở núi Kim Phụng với các thành viên trong Liên Minh. Dù sự thật như thế nào đi nữa, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là kẻ đồng loả với những người phạm tội ác chống lại nhân loại.
Sau vụ Mậu Thân thất bại, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở lại chiến khu ở vùng A Lưới, phía Tây Nam Huế, nhưng không được giao nhiệm vụ gì. Năm 1972, khi Cộng Quân chiếm được một phần tỉnh Quảng Trị, Hoàng Phủ Ngọc Tường được cử làm Trưởng Ty Văn hoá tỉnh Quảng Trị. Nhưng chức vụ này chỉ có trên danh nghĩa.
Sau khi Việt Cộng chiếm Miền Nam, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã về lại Huế và được giao cho giữ chức Phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên. Trịnh Công Sơn đã từ Sài Gòn ra Huế với hy vọng sẽ núp bóng Hoàng Phủ Ngọc Tường và bạn bè cũ để nối tiếp sự nghiệp của mình. Nhưng, theo Trịnh Cung, bỗng dưng cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo Trịnh Công Sơn và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường Đại Học và Trịnh Công Sơn phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sau đó, Trịnh Công Sơn phải đi vùng kinh tế mới cuốc đất làm rẩy. Khoảng năm 1978, Trịnh Công Sơn mới có thể trở về Sài Gòn. Sau khi Trịnh Công Sơn qua đời, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết cuốn “Cây đàn lia và hoàng tử bé” để nói về Trịnh Công Sơn.
Có tài liệu nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là đảng viên Đảng CSVN, nhưng chúng tôi không tin, vì Đảng CSVN không bao giờ thu nhận một trí thức thường có những triết lý vụn vặt như Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông chỉ được phụ trách một số công tác lặt vặt như Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Cửa Việt, v.v.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bị tai biến mạch máu não và bị liệt nữa người cách đây khoảng 10 năm và hiện đang sống với vợ là Lâm Thị Mỹ Dạ ở 280/8 Phan Bội Châu, thành phố Huế.
2.- Ngô Kha:  Trịnh Công Sơn chịu ảnh hưởng của Ngô Kha nhiều hơn Hoàng Phủ Ngọc Tường vì những lý do sau đây:  Mặc dù lớn hơn Trịnh Công Sơn đến 4 tuổi, Ngô Kha là em rể của Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn có 2 người em trai và 5 người em gái. Người em gái lớn nhất là Trịnh Vĩnh Thúy đã lấy Ngô Kha. Ngô Kha lại là người có học thức, rất sâu sắc, có đầu óc thực tế và có mưu lược, nên được Trịnh Công Sơn mến phục. Trịnh Công Sơn thường hành động theo sự hướng dẫn hay chỉ đạo của Ngô Kha.
Ngô Kha sinh năm 1935 tại làng Thế Lại, thành phố Huế, tốt nghiêp Đại Học Sư Phạm Huế khoá 1 (1958-1959) về môn Văn, và dạy Việt Văn tại trường Quốc Học, Huế. Năm 1962, Ngô Kha đậu thêm Cử Nhân Luật Khoa ở Huế.
Trong Cuộc Bạo Loạn của Phật Giáo năm 1966, Ngô Kha thuộc thành phần chỉ đạo, đúng đàng sau giựt dây anh em hoạt động. Như đã nói ở trên, chính Ngô Kha đã đứng ra lập “Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức” để chống lại Quân Lực VNCH. Sau khi Huế thất thủ, Ngô Kha không đi vào Chiến Khu như Hoàng Phủ Ngọc Tường mà ở lại nội thành hoạt động dưới sự chỉ đạo của Thành Ủy Huế. Ngô Kha đã bị bắt và bị đưa đi an trí ở Phú Quốc hai năm rồi bốn năm, đến năm 1970 mới được thả về. Năm 1971, Ngô Kha đã bị bắt lại, nhưng cũng được phóng thich sau một thời gian ngắn. Tuy nhiên, Ngô Kha vẫn tiếp tục hoạt động cho Cộng Sản.
Ngô Kha đã lập nhóm Trí Thức Đấu Tranh Tự Quyết gồm Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Thái Ngọc San, Chu Sơn và Trịnh Công Sơn. Năm 1972, Ngô Kha lại lập thêm Mặt Trận Văn Hóa Dân Tộc Miền Trung do chính Ngô Kha làm Chủ Tịch, đặt dưới sự chỉ đạo của Thành ủy Huế.
Trịnh Cung kể lại:  Chúng tôi đi bộ từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi:  “Cậu vào Chiến Khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.
Theo dõi các hoạt động của Ngô Kha, Cảnh Sát Huế đã quyết định bắt Ngô Kha vào ngày 30/1/1973 và sau đó Ngô Kha bị mất tích luôn. Năm 1981, nhà cầm quyền CSVN ở Huế đã có quyết định công nhận Ngô Kha là liệt sĩ.
Chu Sơn, một thành viên trong nhóm Tự Quyết của Ngô Kha bị Cảnh Sát bắt năm 1974, có tiết lộ rằng ngày 28/1/1973, trước khi bị bắt 2 ngày, Ngô Kha có viết cho ông một lá thư khá dài nói lên những suy nghĩ của mình trước thời cuộc và cách thế ứng xử của ông trong một giai đoạn quan yếu của chiến tranh. Ngô Kha cũng đã tiết lộ:
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng, đồng bào Miền Bắc, Chính Phủ và Đảng Cọng Sản ở Hà Nội cổ vũ và ủng hộ nhiệt tình phong trào Phật giáo và xem phong trào này như là một đồng minh, một bộ phận của mặt trận chính trị đánh Mỹ”.
Cựu Thiếu Tá Liên Thành cho biết Cảnh Sát đã theo dõi và biết Trịnh Công Sơn thường liên lạc với Lê Khắc Cầm - em ruột của giáo sư Lê khắc Phò - một cán bộ quan trọng của cơ quan Thành Ủy Huế. Nhưng chúng tôi tin rằng tầm cở như Trịnh Công Sơn không đủ uy tín để được Thành Ủy Huế giao cho làm bất cứ công tác gì. Trịnh Công Sơn chỉ làm liên lạc giữa Ngô Kha và Lê Khắc Cầm mà thôi, vì lúc đó Ngô Kha đang bị theo dõi rất sát, không dám tiếp xúp với các cán bộ của Thành Ủy nên phải qua trung gian của Trịnh Công Sơn.

ĐIỆP VIÊN CỦA CẢNH SÁT.
Biết được Trịnh Công Sơn thường quan hệ với nhóm bạn bè đi theo Cộng Sản hay thân cộng ở Huế, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên - Huế quyết định dùng Trịnh Công Sơn làm Mật Báo Viên của Cảnh Sát Đặt Biệt trong giới học sinh, sinh viên và trí thức ở Huế. Trịnh Công Sơn đang ở vào tình trạng có thể bị bắt giữ bất cứ lúc nào vì trốn quân dịch và có bằng chứng đang liên lạc với Việt Cộng, nên khi Cảnh Sát yêu cầu, Trịnh Công Sơn đành chấp nhận.
Trịnh Công Sơn được cấp một Sự Vụ Lệnh đặc biệt trong đó chứng nhận Trịnh Công Sơn là viên chức Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế. Yêu cầu các cơ quan Quân, Dân, Chính giúp đỡ trong khi thừa hành phận sự. Nhiệm vụ của Trịnh Công Sơn là cung cấp cho CSĐB các tin tức về địch mà Cảnh Sát cần biết như danh tánh các tổ chức và cá nhân hoạt động dân vận và trí vận cho Thành Ủy Huế, các đường dây liên lạc và trạm liên lạc nội thành của Việt Cộng, kế hoạch hành động của địch, v.v.
Vì Trịnh Công Sơn có khi ở Huế, có khi đi nơi khác nên công tác cũng có lúc gián đoạn, nhưng Trịnh Công Sơn đã làm việc cho CSĐB đến ngày Huế mất. Có những tin tức Trịnh Công Sơn đã báo cáo chính xác, nhưng cũng có những tin không báo cáo. Trịnh Công Sơn thường không báo cáo về các trạm liên lạc và nơi hội họp của nhóm Bửu Chỉ, Ngô Kha, Trần Hoài, Hoàng Thị Thọ, Phạm Thị Xuân Quế, v.v.

ĐƯỢC THUÊ LÀM NHẠC PHẢN CHIẾN.
Kể từ năm 1968, nhóm tư bản quốc phòng đàng sau hậu trường ở Mỹ quyết định đi tới chấm dứt cuộc chiến tại Việt Nam vì mục tiêu của họ đã đạt. Một chiến dịch phản chiến đã được các cơ quan truyền thông lớn của Mỹ phát động. Các nhóm phản chiến còn đưa Thiền Sư Nhất Hạnh từ Pháp qua Mỹ để yểm trợ cho phong trào này.
Ở Việt Nam, Cơ Quan Tình Báo Hoa Kỳ cũng đã thuê Trịnh Công Sơn đặt nhạc phản chiến để làm giảm xuống tinh thần chiến đấu của cả hai bên.
   Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
   Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng.
   Khắp đất nước tràn đầy xác người:
   Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh này.
   (Bài ca dành cho những xác người - 1968)
   Huế Sài Gòn Hà Nội
   Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
   Huế Sài Gòn Hà Nội trong ta đau trái tim Việt Nam.
   (Huế - Sài Gòn - Hà Nội - 1969)
Những tiếng hát như thế mà cứ vang lên, ai mà còn chiến đấu được?
Ngoài ba tập “Ca Khúc Da Vàng”“Kinh Việt Nam” và “Ta Phải Thấy Mặt Trời”, Mỹ còn giúp cho Trịnh Công Sơn thực biện một cuốn phim mang tên “Đất Khổ” được dịch ra tiếng Anh là “Land of Sorrows” để nói lên cảnh bi đát của một gia đình ở Huế trong chiến tranh. Đây là một cuốn phim dài khoảng 20 phút được trình diển và quay rất “professional”.
Nhưng không may cho Trịnh Công Sơn, những chi phiếu được Asia Foundation (một cơ quan tài trợ Tình Báo Văn Hoá của Mỹ) trả cho Trịnh Công Sơn vẫn còn găm lại trên các tập nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn được lưu giữ tại trụ sở của tổ chức này ở phía sau Quốc Hội VNCH sau 30/4/1975 và Công An CSVN đã lấy được. Có lẽ vì thế phong trào chống Trịnh Công Sơn đã được phát động ngay sau khi CSVN chiếm Miền Nam một thời gian ngắn.

BỊ ĐẨY VÀO CON ĐƯỜNG NGHIỆT NGÃ.
Những sự kiện chúng tôi vừa trình bày trên cho thấy tham vọng thành lập một chính quyền Phật Giáo tại Miền Nam và hoàn cảnh đã đưa đất nước, Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang và những người theo họ đi vào những con đường nghiệt ngã với những hậu quả nghiêm trọng còn kéo dài theo Luật Nhân Quả chưa biết đến bao giờ mới dứt.
Nếu không có tham vọng nói trên, những tuổi trẻ lúc đó chưa chắc đã đi theo Việt Cộng. Việt Cộng đã đón tiếp và dùng họ nhưng không tin, vì tuy cùng đứng chung một chiến tuyến nhưng mỗi bên đã nhìn về một hướng khác nhau.
Năm 1992, Trịnh Công Sơn đã viết:
"Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau. Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá... Tôi không muốn khuyến khích sự khổ hạnh, nhưng mỗi chúng ta hãy thử sống cùng một lúc vừa kẻ chiến thắng vừa kẻ chiến bại. Nỗi vinh nhục đã mang ta ra khỏi đời sống để đưa đến những đấu trường..."
(Trịnh Công Sơn, Những Bài Ca Không Năm Tháng, nxb Âm Nhạc, 1995, trang 271).
Bài ca "Nối Vòng Tay Lớn" của Trịnh Công Sơn cho đến nay vẫn chưa thực hiện được:
   Rừng núi dang tay nối lại biển xa
   Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
   Mặt đất bao la, anh em ta về
   Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng
   Bàn tay ta nắm nối laị một vòng Việt-nam.
Nhưng chúng tôi tin rằng khi thế hệ chiến tranh Việt Nam không còn nữa, sẽ không còn sự phân tích hay tranh cãi Trịnh Công Sơn đứng bên này, bên kia hay bên nớ, và nhạc và lời ca của Trịnh Công Sơn chắc chắn sẽ trở thành một loại nhạc và lời ca đứng hàng đầu trong thời đại chúng ta.
Trong bài sau chúng tôi sẽ bàn đến cuốn “Trịnh Công Sơn. Vết Chân Dã Tràng” của Ban Mai.
================================
Trịnh Công Sơn -- Vết Chân Dã Tràng

               Vết  Chân  Dã  Tràng
Trong bài trước, chúng tôi đã nói về cuộc đời chính trị của Trịnh Công
Sơn. Trong bài này, chúng tôi xin nói tiếp về cuốn “Trịnh Công Sơn -
Vết Chân Dã Tràng” của bà Nguyễn Thị Thanh Thúy, bút biệu Ban Mai,
đang bị nhà cầm quyền cấm lưu hành vì “vi phạm luật xuất bản”, “có nội

dung thiếu khách quan; xuyên tạc sự thật lịch sử; xúc phạm những trí
thức, nhạc sĩ khác...”
Được biết bà Nguyễn Thị Thanh Thuý sinh năm 1963 tại Quy Nhơn, tốt
nghiệp Cao Học (trong nước gọi là Thạc Sỹ!) Ngữ Văn Trường Đại Học Quy
Nhơn năm 2006 với Luận Án “Thân phận con người và tình yêu trong ca từ
Trịnh Công Sơn”, hiện là chuyên viên chính Phòng Khoa Học và Công
Nghệ, Trường Đại Học Quy Nhơn. Cuốn “Trịnh Công Sơn - Vết Chân Dã
Tràng” chỉ là sự tu chỉnh, bổ sung từ luận văn nói trên và đã được
Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây ở Hà Nội in ấn và xuất bản vào
tháng 10/2008. Thế thì tại sao đến ngày 13/8/2009, UBND tỉnh Bình Định
lại ra quyết định đình chỉ phát hành cuốn sách này?
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Để có thể tìm hiểu tại sao nhà cầm quyền cho rồi lại cấm phát hành
cuốn “Trịnh Công Sơn - Vết Chân Dã Tràng”, chúng ta hãy nghe bà Ban
Mai nói về sự hình thành tác phẩm của mình.
Được phóng viên của Tập San Da Màu (damau.org) hỏi tại sao chị chọn đề
tài Trịnh Công Sơn để làm luận văn mà không chọn các nhà thơ, nhà văn
Việt Nam khác, tác giả Ban Mai cho biết:
“Tôi chọn ca từ Trịnh Công Sơn để nghiên cứu khi làm Luận Văn Thạc Sĩ
đơn giản vì tôi vốn thích và say mê ngôn ngữ nhạc Trịnh Công Sơn, ngôn
ngữ ca từ của ông đích thực là thơ, một kiểu thơ lãng mạn, trữ tình,
giàu chất hiện sinh, siêu thực, mang đậm chất thiền.
“Mặt khác bản chất của nghiên cứu là tìm kiếm cái mới, dùng ca từ của
một nhạc sĩ để nghiên cứu dưới góc nhìn văn học là một đề tài hoàn
toàn mới, chưa có một công trình nghiên cứu nào trong trường học Việt
Nam làm về đề tài này tính cho đến thời điểm tôi đang làm luận Văn
Thạc Sĩ, vì vậy, tạo cho tôi một sự kích thích say mê.
“Bên cạnh đó, cuộc đời Trịnh Công Sơn tiêu biểu cho bi kịch một thế hệ
trí thức Miền nam Việt Nam những năm chiến tranh loạn lạc và sau thời
hậu chiến; nghiên cứu về Trịnh Công Sơn cũng là nghiên cứu tiếng nói
của một thời đại, một hiện tượng văn hóa nghệ thuật đặc sắc của Thế Kỷ
20.”
Thật ra, Trịnh Công Sơn không hề “tiêu biểu cho bi kịch một thế hệ trí
thức Miền nam Việt Nam những năm chiến tranh...” mà chỉ tiêu biểu cho
bi kịch của một thế hệ sinh viên và thanh niên đầy cuồng tín đã đi
theo một nhóm tăng sĩ Phật Giáo có nhiều tham vọng chính trị để đấu
tranh cướp chính quyền và lập một chính phủ Phật Giáo tại Miền Nam. Họ
bị đẩy vào tình trạng không tìm ra lối thoát cho cuộc đời của mình.
Chúng ta hãy nghe Nguyễn Đắc Xuân, Đoàn Trưởng Đoàn Sinh Viên Quyết Tử
của Thích Trí Quang kể lại chuyện trốn chạy khỏi mạng lưới của cơ quan
an ninh VNCH sau khi lực lượng đấu tranh của Phật Giáo bị Quân Đội
VNCH dẹp tan vào năm 1966:
“Biết không thể có mặt ở Huế thêm nữa, hai anh em Hoàng Phủ liên lạc
được với Thành ủy rồi thoát ly. Còn tôi phải ẩn mình trong chùa Diệu
Đế để tiếp tục công việc trong Đài Phát Thanh Cứu Nguy Phật Giáo đặt
ngay trong chùa. Sau đó được tin Thiệu Kỳ sẽ truy bắt tôi, các thầy
bảo tôi phải rời chùa Diệu Đế ngay để tránh khỏi bị bắt như hồi tháng
8.1963 nữa. Tôi mượn áo cà-sa mặc vào, giả làm một Ni-cô và được hai
sinh viên Quyết tử (cũng là sinh viên Phật tử) là Phạm Văn Rơ và Cao
Hữu Điền hộ tống lên chùa Từ Đàm. Lên chùa được hai hôm, thầy Thiện
Siêu gởi tôi vào ẩn ở chùa Kim Tiên của thầy Chánh Trực. Ở Kim Tiên
được một tuần, tôi lại chuyển qua Tường Vân. Để có thể thoát được sự
theo dõi của bọn tình báo, tôi được thầy Chơn Tế cạo đầu cho giả làm
một nhà sư của chùa. Nhưng rồi ở Tường Vân cũng không yên, nhiều lần
bị lính Nùng của Thiệu Kỳ vây bắt. Nếu không có được sự che chở của
các thầy chùa Tường Vân thì tôi đã nát thây với lính Thiệu Kỳ từ cuối
tháng 6/1966 rồi. Không ngờ chùa Tường Vân nằm trong địa bàn lõm của
Thành ủy Huế. Tất cả những căng thẳng đe doạ diễn ra hằng ngày đối với
tôi ở chùa Tường Vân, Thành ủy Huế đều biết. Đến đầu tháng 7/1966, anh
Hoàng Phủ Ngọc Tường từ Thành ủy Huế trên chiến khu gởi thư rủ tôi ra
bưng nghĩ một thời gian chờ tình hình đàn áp của Thiệu Kỳ lắng xuống
rồi sẽ trở lại Huế. Sống với các thầy nhiều năm, ranh giới giữa Phật
giáo và Mặt trận Giải phóng trong tôi rất mờ nhạt, cho nên khi nhận
được thư anh Tường từ chiến khu gởi vào, tôi thấy không có gì bất ngờ
cả. Hơn nữa, trước đó không lâu (5/1966), hai ông bạn tôi là N.N.L và
Trịnh Công Sơn đã trao đổi với tôi về lối thoát cho các cuộc tranh đấu
lúc đó là con đường của Mặt trận Giải phóng. Cho nên cái thư của anh
Tường trở thành lối thoát của tôi. Mấy hôm sau tôi ra đi trong bộ cà-
sa của một nhà sư (10/7/1966). Không chỉ một thời gian ngắn như anh
Tường viết mà rong ruổi xuôi ngược Trường Sơn đến chín năm
(1966-1975).”
(Trích trong bài “Hòa Thượng Thiện Siêu, Người không chấp trước những
thị phi thế trị” của Nguyễn Đắc Xuân).
Đó là “bi kịch một thế hệ trí thức” cuồng tín đấu tranh cho những tham
vọng phiêu lưu. Họ bị dồn vào chỗ phải chấp nhận thân phận “tự lưu
đày”, bị bên này lùng bắt, bên kia xử dụng rồi ruồng bỏ vì không tin.
Những nỗ lực của họ đã trở thành những “vết chân dã tràng” như ca giao
Việt Nam đã mô tả:  “Dã tràng xe cát bể đông, nhọc lòng mà chẳng nên
công chút gì.” Trái lại, đa số các trí thức của Miền Nam không đi theo
con đường đấu tranh cho mục tiêu phiêu lưu của một số tăng sĩ Phật
Giáo đều được sống theo ước nguyện của mình.
Câu hỏi thứ hai được phóng viên tạp chí Da Màu đặt cho bà Ban Mai:  Từ
đâu bà có ý tưởng viết tập sách này? Bà trả lời:
“Tập biên khảo “Trịnh Công Sơn - Vết Chân Dã Tràng” là sự tu chỉnh, bổ
sung từ luận Văn Thạc Sĩ chuyên ngành Văn Học Việt Nam, mà tôi đã bảo
vệ năm 2006. Sau khi bảo vệ đề tài với số điểm tối đa, Hội Đồng Bảo Vệ
Luận Văn gợi ý tôi nên viết lại thành sách để công bố. Qua một năm bổ
sung nhiều tài liệu và hoàn chỉnh lại, tôi gửi bản thảo đến Trung Tâm
Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây ở Hà Nội. Sau khi xem bản thảo tôi gửi ra,
họ đồng ý tài trợ việc in ấn và xuất bản. Đến tháng 10/2008 tập sách
mới hoàn thành và đến tay bạn đọc.”
CHUẨN BỊ TẤN CÔNG.
Trước khi ra lệnh ngưng phát hành cuốn “Trịnh Công Sơn - Vết Chân Dã
Tràng”, Bộ Công An đã cho “Cò Mồi” đưa ra những bài phản đối cuốn sách
này để chuẩn bị dư luận. Bà Ban Mai cho biết:
“Cách đây ba tháng, khoảng gần cuối tháng 3/2009, tôi nhận một cuộc
điện thoại từ Hà Nội, thông báo có một bài viết rất nặng tay của một
bạn đọc gửi báo An Ninh Thế Giới, có lẽ sẽ đăng vào ngày mai. Họ báo
trước để tôi chuẩn bị tinh thần. Sáng hôm sau, tôi ra sạp báo để tìm
bài viết, nhưng không thấy, qua hôm sau cũng vậy. Nóng lòng, tôi truy
tìm trên mạng và bắt gặp bài viết của tác giả Nguyễn Hoàn trên trang
web “Bàn Tròn Văn Nghệ của Hội Nhà Văn”, bài viết tập trung, phê phán
Chương IV, phần Trịnh Công Sơn và Chiến Tranh Việt Nam. Cuối bài,
Nguyễn Hoàn đề nghị Cục Xuất Bản thu hồi sách, nếu tôi không viết lại
theo đúng quan điểm mà ông ta đưa ra. Bài viết đăng ngày 17/3/2009,
không có ý kiến phản hồi nào của bạn đọc. Đến ngày 30/3/2009, báo An
Ninh Thế Giới mới đăng bài này. Nhưng lúc đó, đang có cơn sốt về bài
viết của Trịnh Cung, nên bài của Nguyễn Hoàn không ai để ý. Để tiếp
tục khuấy động văn đàn trong nước về đề tài Trịnh Công Sơn, tháng
4/2009 Nguyễn Hoàn đăng lại bài này trên Tạp chí Sông Hương, sau đó
ngày 8/5/2009, ông ấy lại tiếp tục đăng trên báo Nhân Dân và Tạp Chí
Ban Tuyên Giáo. Đó là những tờ báo tôi biết, còn những tờ báo đăng lại
trên Web thì nhiều vô kể.”
MỤC TIÊU TẤN CÔNG.
Tất cả mục tiêu tấn công đều tập trung vào Chương IV của cuốn sách.
Chương này nói về “Trịnh Công Sơn và Chiến Tranh Việt Nam”, trong đó
những lời ca của Trịnh Công Sơn và một số nhận định của tác giả Ban
Mai là đối tượng của cuộc tấn công. Dưới đây chúng tôi xin trích lại
những đoạn chính trong Chương IV có thể bị coi “có nội dung thiếu
khách quan, xuyên tạc sự thật lịch sử”.
Mở đầu Chương IV, Ban Mai đã viết như sau:
“Mở đầu tập Ca Khúc Da Vàng viết năm 1967, Trịnh Công Sơn bày tỏ nỗi
đau thống thiết:  “Tất cả đã bể, đã vỡ toang. Tiếng thét đã chìm xuống
biển thành tiếng nói trầm tư, thành lời kêu uất về thân thế Việt Nam.
Tiếng nói vang lên từ những hố bom đào lên cùng khắp. Ơi những bạn bè
thân yêu đã chết từ đỉnh cao hay vực thẳm. Con người đã hóa thân làm
vết thương. Cái chết hóa thân làm biểu tượng vô nghĩa. Ám khí dày đặc,
làm sao thấy rõ mặt nhau. Hãy thử bắt đầu bằng tiếng hát như ca dao
của tổ tiên ta ngày xưa đó...”
(“Da Vàng Ca Khúc”).
Tác giả viết tiếp:
“Trong ca khúc “Gia Tài Của Mẹ” sáng tác năm 1965, Trịnh Công Sơn cho
rằng đây là cuộc chiến tranh nội chiến.

Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây

Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn.
(Gia Tài Của Mẹ - 1965)
Tác giả đã đưa ra một số nhận xét về cách nhìn của Trịnh Công Sơn về
Chiến Tranh Việt Nam:
“Chính quan điểm này đã làm cho chính quyền Miền Bắc e ngại ông. Bởi
vậy, trong giai đoạn đầu của thời hậu chiến, có người quá khích ở
chiến khu đã tuyên bố khi về Sài Gòn sẽ “xử tử” Trịnh Công Sơn. Cho
đến ngày nay, quan điểm về tên gọi cuộc chiến vẫn là điều tranh cãi.
Với tôi, tôi đồng cảm cùng suy nghĩ của Trịnh Công Sơn, bởi vì đứng
trên góc nhìn dân tộc, cái chết nào cũng đau xót như nhau. Vì tất cả
đều chung Giòng Máu Lạc Hồng. Đó chính là bi kịch của Người Dân Việt.
Với trái tim nhạy cảm và nhân ái vô cùng, Trịnh Công Sơn đã nhận ra
điều vô lý ấy... Đúng, nhạc chiến tranh của ông bắt nguồn từ tình yêu
thương, nó là những bài tự tình dân tộc, ông nói hộ cho dân tộc thân
phận khổ ải của kiếp người trong chiến tranh, là tiếng kêu thương
tuyệt vọng của người dân trong cảnh thịt xương tan nát.”
Bà viết tiếp:
“Là một trí thức, ông ý thức được thân phận nhược tiểu của đất nước
mình trong bối cảnh tranh giành ảnh hưởng của các thế lực quốc tế. Cảm
nhận được nỗi đau mất mát ấy, cho nên dù đang ở trong cái thế chống
đối nhau, tự trong thâm tâm của người dân Việt, họ vẫn thấy yêu nhau,
gần nhau...
“Cái bi thảm nhất là ở chỗ:  Cùng là người Việt Nam, nhưng người Việt
lại bắn giết người Việt. Trong thực tế cuộc đời, có khi họ là anh em,
cha con, là người yêu của nhau, nhưng vì khác chiến tuyến, nên nhìn
nhau xa lạ. Khi người Việt đó:  Bỏ xác trôi sông, chết ngoài ruộng
đồng / Chết rừng mịt mùng, chết lạnh lùng / Mình cháy như than, chết
cong queo / Chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu / Chết nghẹn ngào,
mình không manh áo (Tình Ca Của Người Mất Trí - 1967).
“Trịnh Công Sơn cho rằng, đây là cái chết do một trận địa chấn, một
cơn hồng thủy. Một cái chết không nằm trong dự tính của họ. Họ bị
những cơn hiểm hoạ cay nghiệt nhất của nhân loại, vô hình xô đẩy nhau
vào mâu thuẫn, hận thù. Nhưng trong sâu xa nơi tâm hồn, họ không thấy
sự mâu thuẫn, hận thù mà chỉ thấy một màu da thơm mùa lúa chín, thấy
yêu nhau, thấy gần nhau trong tiếng nói Việt Nam.

Huế Sài Gòn Hà Nội
Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
Huế Sài Gòn Hà Nội trong ta đau trái tim
Việt Nam.
(Huế - Sài Gòn - Hà Nội - 1969)
“Như vậy thì quả dân tộc ta đang gặp một cơn đại nạn. Và triệu người
đã chết bất đắc kỳ tử, chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phát
xuất từ đâu tới, chớ không phải từ trong lòng anh em Việt Nam, mà ngày
nay có những quan điểm cho rằng đó là cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” của
các nước lớn.
Hai mươi năm là xác người Việt nằm
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu?
(Tuổi Trẻ Việt Nam - 1969)
“Nói như Bửu Ý “Chiến tranh diễn ra không phải ở chiến trường, không
phải do người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tròn, ở trong lòng người, ở
trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh… Giữa một nền trời
như vậy, thân phận con người là một vấn nạn, ta nên nói ngay:  Đây là
một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lý.” Theo Lê Trương,
những bài ca nổi tiếng trong giai đoạn này như “Tình Ca Của Người Mất
Trí”, “Ca Dao Mẹ”, “Gia Tài Của Mẹ”, “Đi Tìm Quê Hương” là những bài
hát có ca từ rất buồn thảm, giai điệu blues dìu dặt, thở than, kể lể
như tiếng khóc của một người đàn bà trong góc phòng tối, rồi bỗng
nhiên nức nở, gào thét thảm thiết. Ông nói hộ những gì trong tâm hồn
họ bị nổ ra vì quá đau khổ, u uất, vì không thể đè nén lại được nữa.
Những ước mơ từ lâu họ không được quyền nói tới, phải được chôn sâu
vào trong lòng, nay bỗng bùng lên trong tiếng hát của người mất trí.
“Không chỉ riêng Trịnh Công Sơn, hầu như người dân Miền Nam nào cũng
sống trong bi kịch ấy. Để minh chứng cho một thời đại đầy biến động
này, chúng ta hãy đọc bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn khi viết về bộ đội
Miền Bắc với một giọng thơ ngất ngưởng:
Kẻ thù ta ơi, những đứa xăm mình
Ăn muối đá và điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi, vì ngươi bạc phước
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”…
(Chiến Tranh Việt Nam và Tôi - Nguyễn Bắc Sơn)
...
“Người Miền Nam thấy mình trong ca khúc “Cho Một Người Nằm Xuống”,
Trịnh Công Sơn thương tiếc Lưu Kim Cương, một Đại Tá Không Quân Việt
Nam Cộng Hòa tử nạn, là một người bạn hào hiệp của ông:
Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa về cội nguồn
Những xót xa đành nói cùng hư không.
(Cho Một Người Nằm Xuống - 1968)
“Người Miền Bắc lại bắt gặp mình khi ông chia sẻ nỗi đau:
Tôi mất trong chiến tranh này
Bao nhiêu bao nhiêu nụ cười
Em từ Hà Nội có bao giờ được yên vui
(Tôi Đã Mất - 1970)
...
“Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn là thế. Có người tán thành, có
người còn nghi ngại. Âu cũng là lẽ thường tình vì cách nghĩ của con
người có bao giờ là như nhau. Nó luôn vận động và nhận chân lại những
giá trị, lý giải lại những gì đã qua. Cuộc đời này mãi mãi là như
vậy.”
= * =
Chỉ cần trích một số đoạn của Chương IV, chúng ta cũng có thể hiểu
được tại sao nhà cầm quyền Việt Nam đã ra lệnh ngưng phát hành cuốn
“Trịnh Công Sơn - Vết chân dã tràng” của Ban Mai.
CÁCH NHÌN TƯƠNG PHẢN.
Trong lời khai mạc lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lâp Đảng đọc tại
Hà Nội ngày 5/1/1960, Hồ Chí Minh nói:
“Đảng là con nòi, xuất thân từ giai cấp lao động. Trong đại gia đình
vô sản quốc tế dười ngọn cờ Chủ Nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta có những
người anh vĩ đại như Đảng Cộng Sản Liên Sô, Đảng Cộng Sản Trung Quốc,
Đảng Cộng Sản Pháp và các Đảng anh rm khác, gồm 35 triêu anh em chiến
sĩ tiền phong của giai cấp công nhân.”
Sau đó, trong bài diễn văn khai mạc Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Lần Thứ
Ba đọc tại Hà Nội ngày 5/9/1960, Hồ Chí Minh lại nói:
“Ngày nay, Chủ Nghĩa Xã Hội đã thành một hệ thống thế giới hùng mạnh,
vững chắc như lũy thép thành đồng. Nhân dân ta vô cùng phấn khởi trước
những thành công vĩ đại của Liên Sô trong sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa
Cộng Sản và những thắng lơi to lớn của Trung Quốc và các Nước Xã Hội
Chủ Nghĩa Anh Em khác trong công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội...
Cuộc tranh đấu kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định sẽ đánh
bại bọn đế quốc thực dân. Chủ Nghĩa Xã Hội cuối cùng nhất định sẽ toàn
thắng khắp thế giới.”
(Lịch sử Đảng CSVN, Tập III, tr. 89, 99).
Cuốn “Lịch Sử Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước” có ghi rõ:
Nghị Quyết Hội Nghị lần thứ 15 của Trung Ương Đảng khẳng định Cơ Bản
Miền Nam là Giải Phóng Miền Nam:  Nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập
đoàn thống trị Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ; phương pháp cách
mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng...”
(Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi và bài học, tr.
44).
Thế nhưng những lời ca của Trịnh Công Sơn được tác giả Ban Mai diễn tả
lại, đã nói lên những bi thảm của chính sách nói trên của Đảng:
-Tất cả đã bể, đã vỡ toang.
-Con người đã hóa thân làm vết thương. Cái chết hóa thân làm biểu
tượng vô nghĩa.
-Cho đến ngày nay, quan điểm về tên gọi cuộc chiến vẫn là điều tranh
cãi. Với tôi, tôi đồng cảm cùng suy nghĩ của Trịnh Công Sơn, bởi vì
đứng trên góc nhìn dân tộc, cái chết nào cũng đau xót như nhau.
-Hai mươi năm nội chiến từng ngày
-Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
-Cái bi thảm nhất là ở chỗ:  Cùng là người Việt Nam, nhưng người Việt

lại bắn giết người Việt.
-Họ bị những cơn hiểm họa cay nghiệt nhất của nhân loại, vô hình xô
đẩy nhau vào mâu thuẫn, hận thù.
-Như vậy thì quả dân tộc ta đang gặp một cơn đại nạn. Và triệu người
đã chết bất đắc kỳ tử, chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phát
xuất từ đâu tới, chớ không phải từ trong lòng anh em Việt Nam, mà ngày
nay có những quan điểm cho rằng đó là cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” của
các nước lớn.
Vân vân và vân vân.
Nhật báo Nhân Dân của Đảng CSVN đã coi những lời này như là những sự

"phỉ báng xương máu của bao thế hệ cha anh đã ngã xuống tô thắm nền
hòa bình của đất Việt".
NHẬN DIỆN THỦ PHẠM.
Lời tiên đoán “Chủ Nghĩa Xã Hội cuối cùng nhất định sẽ toàn thắng khắp
thế giới” của Hồ Chí Minh ngày nay đã bị thực tế chứng minh ngược
lại:  Chủ Nghĩa Cộng Sản đã hoàn toàn bị sụp đổ. Tuy các Đảng CS Trung
Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba vẫn còn nói đến “Tiến Lên Xã Hội Chủ
Nghĩa”, nhưng trong thực tế, chủ nghĩa này chỉ còn là một chiêu bài
không hơn không kém. Sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản đã đưa đến những hệ
luỵ sau đây đối với Đảng CSVN:
1.- Việc đem Chủ Nghĩa Cộng Sản áp dụng vào Việt Nam là một sự sai lầm
nghiêm trọng:  Khi đi theo Chủ Nghĩa Maoist hay Stalinist, Đảng CSVN
đều đem thảm hoạ đến cho đất nước.
2.- Nếu Đảng CSVN không cướp chính quyền năm 1945, Pháp đã không thể
trở lại Việt Nam:  Hiến Chương Đại Tây Dương ngày 11/8/1941 do Anh và
Mỹ ký kết đã tuyên bố:  “Đồng Minh hứa sẽ tôn trọng quyền của các dân
tộc được lựa chọn hình thức chính phủ cai trị của họ”. Sau khi cướp
chính quyền, ngày 17/10/1945, Hồ Chí Minh đã gởi cho Tổng Thống Truman
một điện văn yêu cầu công nhận chính phủ của ông. Nhưng trước đó cả
Hoa Kỳ lẫn Anh đều nhận ra rằng Hồ Chí Minh là Cộng Sản nên đã đồng ý
để cho Pháp trở lại Việt Nam. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tuyên bố:  “Hoa Kỳ
nhìn nhận chủ quyền của Pháp trên Đông Dương”. Ngày 11/10/1945, Ngoại
Trưởng Anh cũng tuyên bố như vậy. Rỏ ràng là nếu năm 1945, Đảng CSVN
không cướp chính quyền, Pháp đã không trở lại Đông Dương, và đã không
có cuộc chiến tranh “Giải Phóng” hay chống cộng kéo dài 30 năm với
những hậu quả rất nghiêm trọng mà Trịnh Công Sơn chỉ mới mô tả được
một phần nhỏ.
3.- Tài liệu lịch sử cho thấy không có Trung Quốc thì không có Điện
Biên Phủ, không có Hiệp Định Genève 1954, không có Chiến Thắng
30/4/1975. Tại sao Trung Quốc đã giúp Đảng CSVN tận tình như vậy? Thủ
Tướng Chu Ân Lai nói:
“Nước chúng tôi lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao
Động Việt Nam mở cho một con đường xuống Đông Nam Châu Á.”
Nói một cách khác, Trung Quốc muốn biến Đảng CSVN thành một tên lính
đánh thuê (mercenary) của Trung Quốc.
4.- Để có thể đánh chiếm Miền Nam, Đảng CSVN đã chấp nhận làm ngơ cho
Trung Quốc chiếm một phần lãnh thổ ở biên giới Việt - Trung. Tập “Tình
hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay” của
nhà cầm quyền Hà Nội đã cho chúng ta thấy những phần lãnh thổ ở biên
giới đã bị Trung Quốc chiếm, cách chiếm và chiếm khi nào. Ngày
4/9/1958 Trung Quốc tuyên bố nới rộng hải phận ra 12 hải lý chung
quanh các đảo mà Trung Quốc cho là của mình như Hoàng Sa và Trường Sa.
Để lấy lòng Trung Quốc, ngày 14/9/1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng nói
rằng chính phủ Việt Nam công nhận và đồng ý tán thành lời tuyên bố
ngày 4/9/1958 của Trung Quốc, mặc dầu Hà Nội thừa biết Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc về VNCH chứ không thuộc về Hà Nội. Khi hành động như
vậy, Hà Nội tính toán đơn giản rằng nếu chiếm được Miền Nam mà mất một
phần lãnh thổ ở phía Bắc và các đảo ở Biển Đông thì coi như đã lời quá
rồi. Nhưng hậu quả của sự tính toán này là Việt Nam đã bị mất vĩnh
viễn một phần đất và biển, không còn đòi lại được nữa. Đảng CSVN phải
chịu trách nhiệm trước dân tộc và đất nước về sự sai lầm này.
Như vậy, những lời ca mà Trịnh Công Sơn đã dùng để mô tả về Cuộc Chiến
Việt Nam vừa qua không có gì sai lầm và bà Ban Mai, tác giả cuốn
“Trịnh Công Sơn - Vết Chân Dã Tràng” đã đưa ra những vấn nạn cần phải
được nêu lên:
(1) Cho đến ngày nay, sau hơn 30 năm kết thúc chiến tranh, nhìn lại
những chặng đường thăng trầm của đất nước, có lẽ đã đến lúc chúng ta
dũng cảm nhìn nhận lại cuộc chiến đã qua...
(2) Cái bi thảm nhất là ở chỗ:  Cùng là người Việt Nam, nhưng người

Việt lại bắn giết người Việt.
(3) Cho đến ngày nay, quan điểm về tên gọi cuộc chiến vẫn là điều
tranh cãi.
(4) Thân phận da vàng người Việt ngày nay đã thực sự thoát đời nô lệ
ngoại bang chưa?, v.v.
Cho đến nay, Đảng CSVN đã mặc thị nhìn nhận rằng đưa Chủ Nghĩa Cộng
Sản vào áp dụng tại Việt Nam là một sai lầm lớn gây thảm hoạ cho đất
nước, nên đã không “Tiến Lên Xã Hội Chủ Nghĩa” nữa mà chuyển qua kinh
tế thị trường. Đảng CSVN cũng không còn “Chống Mỹ Cứu Nước” mà “Nhờ Mỹ
Cứu Đảng”, v.v. Do đó, những vấn đề tác giả Ban Mai nêu lên đã trở
thành những vấn đề cần được làm sáng tỏ.
Nếu hôm nay nhà cầm quyền ngăn cản chưa cho đặt lại trách nhiệm lịch
sử, những thế hệ tiếp theo cũng sẽ tiếp tục làm và sự thật lịch sử
chắc chắn sẽ được đưa ra ánh sáng.
Nhìn lại, vì thời cuộc và vì tình bạn bè, trong cuộc chiến Việt Nam
Trịnh Công Sơn không có con đường nào khác là phải đi chàng hảng để
sinh tồn. Nhưng cũng chính cái thế phải đi chàng hảng này đã gợi lên
trong tâm thức của Trịnh Công Sơn những bài ca bất hủ.
Hiện nay, ở Hai Bên “Chiến Tuyến”, bên nào cũng còn có một số người
chống nhạc Trịnh Công Sơn vì cho rằng Trịnh Công Sơn đứng về phía bên
kia. Nhưng trước năm 1975, Tạ Tỵ đã viết:
“Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam không nhạc sĩ nào có thể tạo cho mình,
cho thế hệ mình những cơn lốc nghệ thuật làm lay động đến chiều sâu
tâm thức con người trong và ngoài kích thuớc quốc gia như Trịnh Công
Sơn.”
Tiếng nhạc quen thuộc của Trịnh Công Sơn vẫn đang vang vọng lên ở đâu
đó hay trong lòng người, trên đất nước cũng như ở hải ngoại:
Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam
Ngày gió lớn, tôi đi môi gọi thầm,
Gọi tên anh, tên Việt Nam,
Gần nhau trong tiếng nói da vàng.
(Tình Ca Của Người Mất Trí - 1967)
                                             Lữ Giang 7/9/2009

==========================
Một Thiên Tài Đồng Lõa Với Tội Ác

         Trịnh Công Sơn: Một Thiên Tài Đồng Lõa Với Tội Ác
Nhiều năm nay, có khá đông người viết về Trịnh Công Sơn. Tôi cũng có
một số ít kỷ niệm với Trịnh Công Sơn, nhưng không viết ra vì ngại bị
độc giả hiểu nhầm mình muốn kiếm chút hơi hướm tên tuổi nơi một thiên
tài nổi tiếng. Mới đây họa sĩ Trịnh Cung – Nguyễn Văn Liễu – viết một
bài có nhan đề “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị” đăng trên trang
mạng Da Mầu, rồi sau đó có một số người viết “phản bác” về nội dung
bài viết vừa nêu và chê bai nhân cách của tác giả Trịnh Cung, tôi bèn
mạo muội tham gia để bày tỏ đôi chút cảm nghĩ cá nhân vể một thiên tài
từng xem tôi là bạn.
Cuộc chiến tranh giữa Tự Do và Cộng Sản bằng súng đạn đã chấm dứt hơn
30 năm, nhưng vết thương vẫn còn rướm máu, mặc dầu bản thân đã có ý
muốn chôn vùi quá khứ đau buồn để hướng tới tương lai. Những gì tôi
sắp sửa trình bày dưới đây không hề có ý định làm tấy lên vết thương
cũ. Vì dù sao, Trịnh Công Sơn đã trở về với Cát Bụi.
Sau khi tình hình chiến sự Tết Mậu Thân 1968 Đợt I đã lắng dịu, Đại tá
Lưu Kim Cương phái phi công Nguyễn Qúi Chấn bay ra Huế đón Trịnh Công
Sơn vào Sài Gòn. Tôi gặp lại Sơn tại Câu lạc bộ Mây Bốn Phương trong
căn cứ Tân Sơn Nhất sau hơn 5 năm xa cách. Hồi tôi gặp Sơn lần đầu tại
trường Sư phạm Quy Nhơn, Sơn chưa nổi tiếng. Thật đáng mừng cho Sơn đã
may mắn thoát khỏi sự lùng kiếm của Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Nếu lúc bấy giờ Sơn bị sa vào tay của hai nhà cách mạng Xuân,
Tường có thành tích “phủ khăn sô lên đầu dân Huế” và bị dẫn lên núi
theo chân Lê Văn Hảo hoặc bỏ xác nơi Bãi Dâu, thì chắc chắn sự nghiệp
sáng tác nhạc của Sơn sẽ không có “bề dày” như vào thời điểm 1975.
Phải chăng Trịnh Công Sơn thoát khỏi bàn tay Việt Cộng là nhờ được
hưởng phúc đức từ bà mẹ nổi tiếng thờ Phật kính Tăng mà người dân Huế
nào cũng biết?
Từ sau ngày gặp lại Sơn, tôi thường lui tới chơi với Sơn tại ngôi nhà
nằm trên đường Công Lý, đối diện Chùa Vĩnh Nghiêm. Sơn là người hiền
lành, nói năng nhỏ nhẹ. Mặc dầu là người có tài và có tiếng tăm, nhưng
Sơn khiêm tốn, chưa bao giờ tôi nghe Sơn bình phẩm hay chê bai nhạc sĩ
khác. Tôi từng lái máy bay chở Sơn ra Phú Quốc uống rượu với bạn
Nguyễn Văn Mãng Thiếu tá Quân Cảnh, Phạm Thọ Trung tá Hải Quân; lên Đà
Lạt thăm chị Sâm vợ anh Tốn; ra Huế nhậu với bạn hữu của anh chị Hồ
Đăng Lễ. Qua Sơn, tôi giáp mặt với các nghệ sĩ khác như Trịnh Cung,
Đinh Cường, Bùi Giáng, nhà báo Phùng Thị Hạnh, Trùng Dương, kiến trúc
sư Nguyễn Hữu Đống, điêu khắc gia Lê Thành Nhơn, Bửu Tôn … Ngoài ra,
còn có Bửu Ý từ Huế vào tá túc ở nhà Sơn để lánh nạn … đi lính!
Bạn bè nào cũng quý mến Sơn, ngay cả những người lính đang ngày đêm hy
sinh mạng sống của mình để cho bọn ngụy hòa như ni sư Huỳnh Liên, thầy
chùa Nhất Hạnh, giáo gian Nguyễn Ngọc Lan hoặc bà Ngô Bá Thành được
quyền biểu tình, lên tiếng đòi chấm dứt chiến tranh.
Tôi kể cho Sơn nghe câu chuyện của ông anh tôi – Đặng Văn Châu, Giám
đốc Đoàn hoa tiêu (pilotage) sông Sài Gòn kiêm Giám đốc trường Hàng
Hải thuộc Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ – là người rất ái mộ Sơn, nhân
chuyến đi công du Pháp quốc tình cờ gặp cô cháu gái từ Hà Nội sang tu
nghiệp tại Âm Nhạc Viện Paris. Hai chú cháu mừng rỡ khôn xiết. Anh
Châu tôi bèn lấy ra hai cuộn băng cassette nhạc của Sơn để tặng. Cô
cháu gái liền ném ngay hai cuộn băng vào thùng rác và nói:  “Thưa chú,
cháu rất yêu quý chú nhưng rất ghét nhạc Trịnh Công Sơn. Ở Hà Nội
chúng cháu không thèm nghe loại nhạc ủy mị than thân trách phận ấy!”.
Anh Châu quá bẽ bàng trước phản ứng bất ngờ của cô cháu. Nghe xong,
nét mặt Sơn lộ vẻ thất vọng. Tôi nói để như an ủi:  “Sơn ạ! Những ca
khúc gọi là ‘phản chiến’ của Sơn không hề làm lay chuyển hay nhụt chí
những người lính như bọn moa, vì bọn moa ý thức tại sao phải cầm súng
chống lại chủ nghĩa chuyên chính vô sản. Bọn moa có thể vừa nghêu ngao
những câu ca thuộc loại “anh trở về trên đôi nạng gỗ hoặc trong cỗ
quan tài cài hoa” mà vẫn thản nhiên lao mình vào lửa đạn vì tự biết
mình đang trừ gian diệt bạo, chứ không phải vì lòng hận thù. Chính vì
thế mà có nhiều anh em quân nhân đánh giặc rất chì vẫn lui tới chơi
với Sơn mà không hề bị cơ quan an ninh của chế độ làm khó dễ. Hà Nội
không bao giờ chấp nhận Sơn gọi cuộc chiến này là Nội Chiến, vì họ rất
tự hào là đội tiền phong đang thi hành nghĩa vụ quốc tế để hoàn thành
cuộc cách mạng vô sản toàn thế giới. Chỉ có cán binh cộng sản mới bị
Hà Nội cấm nghe nhạc của Sơn”.
Một hôm, ngồi nhậu rượu với Sơn, không hiểu nguyên do nào đưa đẩy câu
chuyện liên quan đến Phong trào Nhân dân Cứu quốc do bác sĩ Lê Khắc
Quyến lãnh đạo, tôi bực bội nói:  “Thú thực với Sơn, moa rất khinh
miệt bọn ‘trí thức rởm’ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc
Xuân. Ở Phương Tây, bọn trí thức khuynh tả thiên cộng vì chúng chưa
từng nếm mùi cộng sản. Còn ở Việt Nam, tự nhận mình là trí thức mà
không hiểu nguyên nhân vì sao hàng triệu người Miền Bắc phải lìa bỏ
tài sản, mồ mả tổ tiên để vào Miền Nam hưởng một chút không khí tự do,
là ngu si, đần độn. Những nhà ái quốc, văn nghệ sĩ danh tiếng đi theo
Việt Minh vì chống Thực dân Pháp, nhưng sau chiến thắng Điện Biên phủ,
gông cùm cộng sản xuất hiện với chủ trương đào tận gốc trốc tận rễ
thành phần thuộc trí phú địa hào thì dẫu những ai từng lập chiến công
với Đảng cũng hết đường cựa quậy. Bộ bọn tranh đấu không hề biết chiến
dịch Phóng tay phát động quần chúng, cải cách ruộng đất ở Miền Bắc hết
sức tàn bạo dã man hay sao? Một Trần Dần làm bài thơ Nhất Định Thắng
có câu ‘chỉ thấy mưa sa trên nền Cờ Đỏ’ và yêu cô gái tiểu tư sản ở
lại Miền Bắc là tan nát cả cuộc đời, đến nỗi phải cắt gân máu tay tự
vẫn. Một Phùng Quán chỉ làm hai bài thơ Lời Mẹ Dặn và Chống Tham Ô
Lãng Phí là bị bầm dập. Một Văn Cao phải ngưng sáng tác âm nhạc mà chỉ
còn vẽ vời lăng nhăng để tránh bị quy cho cái tội mất lập trường giai
cấp. Một Nguyễn Hữu Đang có công dựng lễ đài ở Quảng trường Ba Đình để
Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập cũng không thoát khỏi tù tội. Phải
chăng bọn trí thức chủ trương tờ báo Đứng Dậy đòi hỏi công bằng là để
cho nhân dân Miền Nam này cũng phải chịu chung số phận tôi đòi như
nhân dân Miền Bắc lầm than, khốn đốn thì mới hả dạ?”
“ … Bọn trí thức phương Tây có xu hướng tả khuynh là một kiểu làm dáng
thời thượng không nguy hại cho nền an ninh của nước họ, vì những định
chế dân chủ của các nước đó đã vững vàng. Còn nước ta đang đối diện
một cuộc chiến một mất một còn chống lại kẻ xâm lăng, mà bọn trí thức
bắt chước làm dáng tả khuynh là nhắm tố cáo với thế giới rằng công
cuộc tự vệ của Miền Nam là phi chính nghĩa nghĩa và nhằm tiếp tay
tuyên dương kẻ địch có chính nghĩa giải phóng dân tộc. Hoa Kỳ giúp
Việt Nam ngăn chặn làn sóng đỏ, trí thức là “cái đầu” của Đất Nước, mà
thiên về phía Cộng Sản thì nhân dân Hoa Kỳ không còn có lý do để giúp
chúng ta. Vì vậy, phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ mới có cơ phát triển
dữ dội. Sơn có ý thức điều đó hay không? Sơn có biết Miền Nam sẽ trở
thành trại lính hoặc nhà tù như Miền Bắc không, nếu cộng sản cai trị
toàn bộ Đất Nước?
Trịnh Công Sơn nghe tôi đặt ra những câu hỏi dồn dập, vẫn thản nhiên
hút thuốc lá và chậm rãi nâng ly nhắp từng ngụm rượu đắc tiền của bọn
“đế quốc xâm lược”. Bửu Ý liếc nhìn tôi, rồi liếc nhìn Sơn, miệng tủm
tỉm cười. Lúc bấy giờ tôi không hiểu ý nghĩa cái cười tủm tỉm của Bửu
Ý. Và cho đến nay, khi viết những dòng chữ này, tôi cũng chưa hiểu vì
sao Bửu Ý tủm tỉm cười. Thật bí hiểm! Tôi đoán có lẽ Bửu Ý cười tủm vì
cho rằng tôi là một anh võ biền, chẳng có kiến thức gì lại cố gắng
thuyết phục Trịnh Công Sơn đừng mơ tưởng cộng sản?
Không, tôi biết cả hai người, Trịnh Công Sơn và Bửu Ý, chẳng thể nào
trở thành cộng sản được, như chuẩn mực Hồ Chí Minh xác quyết:  “Phải
là con người xã hội mới yêu chủ nghĩa xã hội”. Mà Sơn và Ý không phải
là mẫu người xã hội! Sơn và Bửu Ý là người đọc nhiều sách vở, nhưng
không nhìn thẳng vào thực tế đang diễn ra trước mắt, lại sống trong
tháp ngà, hưởng thụ rượu nồng, dê béo.
Trịnh Công Sơn mô tả cuộc sống hàng ngày của mình là “Đêm Không Ngủ,
Ngày Bất Tỉnh” mà bất cứ ai đã từng gần Sơn đều nghe Sơn nói câu đó.
Nghĩa là uống rượu, nhậu nhẹt từ khi đêm chưa xuống cho đến ba bốn giờ
sáng; ban ngày thì ngủ vùi bất tỉnh nhân sự. Sơn là một người có biệt
tài viết nhạc với những ca từ “phù thủy” làm mê hoặc những tâm hồn mơ
mộng và Sơn cũng là người cực kỳ thông minh vì biết khai thác đề tài
“chiến tranh – thân phận giống da vàng” phù hợp xu hướng thời đại để
làm cho mình nổi tiếng. Sơn biết lợi dụng sự “thông thoáng” của chế độ
Miền Nam và biết bám vào những người có quyền như Lưu Kim Cương, Hoàng
Đức Nhã để trốn tránh nghĩa vụ quân dịch; đồng thời nghiêng về nhóm
“tranh đấu đểu” loại Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, nghĩa là
bắt cá hai tay, dù ai thắng thì mình cũng hưởng lợi. Nói tóm lại, Sơn
là mẫu người có tài, ham thụ hưởng, không hề biết thương xót kẻ khốn
cùng và không có lòng lân tuất đối với kẻ sa cơ. Xin chứng minh:
-Nữ danh ca phản chiến trứ danh của Hoa Kỳ là Joan Baez sau khi chứng
kiến những thuyền nhân Việt Nam chết chìm ngoài Biển Đông, bà đã tỉnh
ngộ, bèn tập hợp được một nhóm người nổi tiếng (celebrities) cùng ký
vào bản lên án chế độ độc tài chuyên chính cộng sản. Đó là hành động
xứng đáng của người trí thức khi biết mình sai lầm thì phản tỉnh và
chống lại sự tàn bạo dã man. Chỉ có riêng Trịnh Công Sơn không một
chút mảy may động tâm thương xót người chết đuối ngoài biển cả, nên đã
viết thư cho bà Joan Baez để bào chữa cho chế độ bất nhân bằng câu:
“Có thể nào chị và những người bạn Mỹ cùng ký tên trong một lá thư ngỏ
ấy không hiểu rằng sau một cuộc cách mạng đất nước nào cũng phải chịu
đựng những khó khăn, bề bộn và bối rối nhất định?” Hàng trăm ngàn
thuyền nhân chết đuối ngoài biển đã thức tỉnh lương tâm nhân loại,
riêng Trịnh Công Sơn – người nhạc sĩ được chế độ Ngụy đùm bọc – lại đi
bênh vực bạo quyền mà dám gọi đấy là cuộc cách mạng! Chỉ có thiên tài
với tấm lòng lạnh giá như băng mới mô tả đời sống nhân dân cả nước
phải nhai bo bo, dáo dác đi tìm đường vượt biên bằng mấy câu ca mô tả
cảnh thanh bình:  “Em ra đi nơi này vẫn thế, lá vẫn xanh trên con
đường nhỏ, vườn xưa vẫn có tiếng Mẹ ru, có tiếng em thơ, có chút nắng
trong tiếng gà trưa …”. Trong khi những bằng hữu từng cưu mang mình,
từng rót không biết bao nhiêu hồ rượu thượng hảo hạng cho mình như
Phạm Thọ, như Lê Kim Lợi, như Hồ Đăng Lễ đang rũ tù trong trại khổ sai
… thì Trịnh Công Sơn hân hoan “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” để tới
lui khề khà với những người bạn “cách mạng” có vây có cánh! Nhờ đâu
Sơn đã có nhiều niềm vui đến thế? Từ ông Võ văn Kiệt chăng?
-Trịnh công Sơn viết báo cộng sản nhục mạ những anh em chiến sĩ Việt
Nam Cộng Hòa, những người từng che chở cho Sơn, khiến cho ông anh tôi
– Đặng văn Châu – không là quân nhân cũng phải nổi sùng. Năm 1994 về
VN tình cờ gặp Trịnh Xuân Tịnh, em Sơn, ở sân bay Tân Sơn Nhất, anh
tôi đã nhắn:  “Anh Tịnh về nói với Sơn rằng Sơn là một con Số Không,
là kẻ vong ân bội nghĩa”.
-Anh XYZ (nhân vật yêu cầu tôi dấu tên), một người anh em ăn ở hết
lòng với Sơn và bạn bè, đi tù khổ sai về bị tai nạn gãy chân, phải vào
nằm bệnh viện. Sơn làm ngơ như không hề hay biết. Mẹ Sơn hỏi con
trai:  “Tại sao con không vào nhà thương thăm anh XYZ một chút cho có
tình?”. Sơn đáp:  “Đi ra Givral uống rượu còn thú hơn là đi thăm anh
XYZ”. Chính bà mẹ Sơn là người thuật lại cho anh XYZ nghe câu nói phũ
phàng của Sơn. Anh XYZ là người đàn anh của nhóm bạn văn nghệ ở Huế,
rất được bằng hữu kính trọng và yêu thương, hiện sinh sống tại Hoa Kỳ.
Theo quan điểm của tôi, một người nghệ sĩ được đánh giá là chân chính
thì không bám vào kẻ quyền thế để mưu lợi riêng, thủy chung với bạn
bè, biết xót xa với nỗi bất hạnh của kẻ yếu để không bênh vực cho kẻ
gieo TỘI ÁC. Lời phản bác của Sơn đối với bức thư của ca sĩ Joan Baez
lên án chế độ vô nhân đạo là sự đồng lõa, a tòng với TỘI ÁC, mà một
con người bình thường có nhất điểm lương tâm không bao giờ làm. Phải
chăng nhờ bức thư phản bác ca sĩ Joan Baez của Sơn mà Võ văn Kiệt cứu
Sơn thoát khỏi bàn tay Trần Hoàn và phe nhóm Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng
Phủ Ngọc Tường ở Huế?
Nhờ sống với “Ngụy Quyền” Miền Nam, Trịnh Công Sơn nổi tiếng cả thế
giới và được hàng triệu thính giả ái mộ. Nếu Sơn sống với “Chuyên
Chính Vô Sản” Miền Bắc thì Sơn – một thiên tài – có rất nhiều khả năng
trở thành Tố Hữu – nhà thơ thổi ống đu đủ – thăng quan tiến chức nhờ
xu phụ quyền lực. Nhưng Sơn sẽ khổ sở vô cùng, vì Miền Bắc không có
rượu thượng hảo hạng để uống mỗi ngày!
Tôi không chắc Trịnh Công Sơn có tham vọng chính trị như Trịnh Cung
viết. Nhưng năm 1974, có nhóm tranh đấu đòi hòa bình (bịp) mời Sơn
tham gia phong trào ca hát để vận động chấm dứt chiến tranh thì anh em
bạn hữu khuyên Sơn đừng nhận lời, Sơn đáp thẳng thừng:  “Mình phải
tham gia để nếu họ thắng lợi thì mình có tiếng nói”. Lời bày tỏ của
Sơn biểu hiện bản chất của con người biết tính toán để mưu cầu lợi ích
bản thân. Qua bức thư Sơn viết cho Ngô Kha vào năm 1974 có đoạn như
sau:  “Hôm nay những thành thị miền Nam đang vươn vai đứng dậy. Trời
đất được cơ hội thoát ra không khí ô nhiễm để thở bằng sinh lực mới
cùng tập thể nhân dân yêu nước, yêu hòa bình và tự do. Phải chăng hồi
chuông báo tử đã được gióng lên để những gì cần phải tàn tạ hãy tàn tạ
nhanh chóng.” Đó là luận điệu dồi trá, bịp bợm của người nghệ sĩ có
tên tuổi nhưng thiếu nhân cách, bởi vì trong thực tế nơi nào bị cộng
sản tấn công thì nhân dân nơi đó bồng bế nhau chạy về phía Việt Nam
Cộng Hòa, chứ không chạy qua vùng “giải phóng”. Người nào đọc thư Sơn
viết cho Ngô Kha mà bảo rằng Sơn không hề có chủ tâm đứng về phía cộng
sản là người đó mắc chứng “phương trệ tinh thần” (down syndrome).
Ba mươi Tháng Tư năm 1975, nằm ở đảo Guam tôi nghe đài BBC loan tin
Trịnh Công Sơn ôm đàn lên đài phát thanh Sàigòn ca bài “Nối Vòng Tay
Lớn” thì tôi dự đoán cuộc đời của Sơn sắp tiêu ma. Bởi vì cái bản chất
đố kỵ của người cộng sản không bao giờ chấp nhận người ngoài đảng được
phép nổi đình nổi đám được quần chúng hoan hô! Quả nhiên chẳng bao lâu
sau Sơn bị cộng sản đe dọa tính mạng, nên Sơn phải chạy về Huế để mong
được bạn bè che chở. Không ngờ những người bạn của Sơn như Hoàng Phủ
Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đã quay lưng làm ngơ để cho Sơn bị Trần
Hoàn đày đi lao động thực tế! Tình nghĩa bạn bè của cộng sản là như
thế đấy!
Trịnh Công Sơn, một người nghệ sĩ tài hoa, được bạn hữu Miền Nam quý
mến, bảo bọc lại bí mật rấp tâm thông đồng với bọn sát nhân nhằm giật
sập chế độ Việt Nam Cộng Hòa, để rồi bị khốn đốn vì bọn sát nhân. Con
người một dạ hai lòng, dù có tài đến mấy đi nữa, thì vẫn đáng khinh.
Bài viết của Trịnh Cung về Trịnh Công Sơn đã khiến cho một số người
lên tiếng bênh vực “thiên tài”. Chúng ta không ngạc nhiên chút nào,
bởi vì ngay như tội ác của Hitler, Staline, Mạo Trạch Đông vẫn có kẻ
bênh vực và tôn thờ. Nhưng những ý kiến phản bác bài viết của Trịnh
Cung đều có luận điệu mạt sát và bôi nhọ Trịnh Cung, mà không hề thấy
có lời lẽ nào lên án hành vị “một dạ hai lòng ăn cơm quốc gia thờ ma
cộng sản” của Trịnh Công Sơn khiến cho chúng ta thấy được tác giả của
những ý kiến phản bác đều thuộc phe … xã hội chủ nghĩa, chứ không phải
sự lên tiếng là vì SỰ THẬT. Sự Thật đó là Trịnh Công Sơn có ngả về
phía cộng sản.
Trong số những người lên tiếng bênh vực Trịnh Công Sơn trên Thanh Niên
Online có hai Việt Cộng khá tên tuổi. Đó là hai “tội phạm chiến tranh”
Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân từng chôn sống hàng ngàn người
dân Huế vô tội vào năm Mậu Thân 1968. Hai tên tội phạm đó đã ra cái
điều trí thức, lấy danh nghĩa chống Mỹ cứu nước để đẩy cả nước xuống
hầm tai họa. Từ tháng Tư năm 1975 cho đến nay chưa ai nghe thấy hai kẻ
đó có một lời nói hay hành động sám hối.
Ngày xưa sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hai ông Việt Cộng này
hung hăng chống độc tài quân phiệt tay sai đế quốc ngoại bang. Ngày
nay sống với Xã hội Chủ Nghĩa chủ trương đàn áp nhân dân biểu tình tỏ
bày lòng yêu nước chống lại Trung Cộng cướp đất, cướp biển; dân oan
khiếu kiện nằm la liệt dải gió dầm sương; các nhà tôn giáo bị đàn áp,
các nhà dân chủ bị bịt miệng, bị cầm tù thì hai ông Việt Cộng này ngậm
miệng giống như câm, như điếc. Họa sĩ Trịnh Cung tung ra một bài viết
tiết lộ một chút xíu bí mật về Trịnh Công Sơn thì hai ông Việt Cộng
Tường, Xuân hăm hở nhào ra bảo vệ uy tín thiên tài có quá trình đi đêm
với cộng sản! Tình trạng đạo lý suy đồi, quan chức ăn cắp từ trên
xuống dưới, nhân quyền bị xếp hạng chót trên thế giới là những thành
quả to lớn của Cộng Sản Việt Nam mà hai ông Tường, Xuân đã dày công
đóng góp. Cho nên, ngày trước tôi nói với Trịnh Công Sơn rằng tôi rất
khinh bỉ bọn trí thức tranh đấu là một lũ bịp bợm, lưu manh quả không
sai. Khi chuyên chở tù binh cộng sản từ chiến trường, tôi biếu họ điếu
thuốc lá, cái kẹo vì tôi thương và tôi kính trọng người lính khác
chiến tuyến bị sa cơ. Nhưng tôi khinh bỉ những kẻ được ăn sung mặc
sướng ở phần đất tự do lại ngấm ngầm tư thông với giặc.
Thật đáng tiếc cho Trịnh Công Sơn, một thiên tài nhưng đốn mạt. Sơn
không xứng đáng là một người nghệ sĩ được đa số khán thính giả ngưỡng
mộ, vì Sơn cũng chẳng khác với hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường
và Nguyễn Đắc Xuân bao nhiêu.
Mới đây, đọc “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc sĩ Tô Hải, tôi không
hề coi khinh tác giả, trái lại rất kính trọng bởi vì dám nhận mình
hèn. Tác giả phải sống dưới chế độ độc tài toàn trị có kỹ thuật hủy
hoại người thẳng thắn, người cương trực một cách dã man khủng khiếp,
khiến cho ai nấy đều trở nên hèn. Đọc hồi ký của nhà phê bình văn học
Nguyễn Đăng Mạnh kể lại những “cái hèn” của những văn nghệ sĩ Miền
Bắc, tôi vô cùng xót xa cho họ và càng thù ghét chính sách cai trị phi
nhân của cộng sản. Lặp lại, nhạc sĩ Tô Hải dám nói lên cái hèn của
mình, tôi xin ca ngợi ông là người có khí phách.
Ở Miền Nam có chủ trương đề cao nhân tài, dù sản phẩm nhân tài làm ra
nhằm làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân sĩ, vẫn được tự do phổ
biến, mà nhân tài vẫn tư thông với địch mới là đáng khinh. Hai ông
Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân dùng đạo lý tình
bằng hữu để miệt thị họa sĩ Trịnh Cung lừa thầy phản bạn là một hành
vi đạo đức giả. Hai ông Việt Cộng từng phản lại khát vọng tự do của
nhân dân Miền Nam để dẫn “Bộ Đội Cụ Hồ” về chôn sống người Huế vô tội,
thì hai ông không có tư cách gì để nói đến tình nghĩa bạn bè, tình
nghĩa con người. Hơn ba mươi năm qua, Đất Nước đắm chìm trong nghèo
đói, áp bức, bất công, hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn
Đắc Xuân không tỏ bày một chút ân hận, lại còn lên mặt đạo đức giả mới
là kẻ hèn, đáng khinh bỉ.
Đọc bài “Tình bạn, hồi sinh cơn hôn mê” của họa sĩ Đinh Cường viết từ
Virginia từ ngày 16 tháng 4 năm 2001, tôi không khỏi đem lòng hoài
nghi cung cách ứng xử với nhau giữa các ông nghệ sĩ tên tuổi. Nhờ sự
tiết lộ của Trịnh Cung, tôi mới hiểu vì sao Đinh Cường viết những lời
ưu ái với ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả bài “Ai đã đặt
tên cho dòng sông” đã không ngần ngại ca ngợi nhà thơ Tố Hữu bằng câu
văn như sau:  “Nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong
thơ Tố Hữu”. Nhắc lại:  Tố Hữu là nhà thơ dùng quyền lực của Đảng làm
khốn đốn, điêu đứng nhiều anh em nghệ sĩ Miền Bắc.
Còn ông Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân bây giờ là nhà nghiên cứu! Chắc chắn
nhà nghiên cứu này còn bám lấy chủ nghĩa Marxist - Léninist thì sẽ
ngụy tạo ra những bài nghiên cứu theo đường lối “duy vật sử quan” cho
phù hợp lập trường của Đảng để được Đảng cho đi Mỹ, đi Tây khua môi,
múa mép.
Các cụ nhà ta thường nói:  “Phủ bênh phủ, huyện bênh huyện”. Hai ông
Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân càng nỗ lực bênh vực
Trịnh Công Sơn và miệt thị Trịnh Cung bao nhiêu, thì tội trạng Trịnh
Công Sơn tư thông với kẻ thù càng rõ nét bấy nhiêu.
“Thời Của Những Kẻ Giết Người” biết đến bao giờ mới được lương tri soi
sáng để can đảm nói một lời sám hối với những vành khăn tang trắng xóa
đất Thần kinh thì chúng ta mới hy vọng Đất Nước có ngày hồi sinh.
                     Bằng Phong Đặng Văn Âu - 12/4/2009
                     HoaL...@att.net


Trịnh Công Sơn -- Một Loại Ký Sinh Trùng

               Trịnh  Công  Sơn,  Một  Loại  Ký  Sinh  Trùng
Sau khi miền Nam bị Cộng Sản (CS) cưỡng chiếm thì bao nhiêu sự thật
lịch sử đã lần lượt được phơi bày, nhưng chân tướng của Trịnh Công Sơn
vẫn còn được một số người cố gắng che dấu. Những người này cố tròng
vào cổ Trịnh Công Sơn cái vòng hào quang “Quốc Gia”, họ tiếp tục ca
tụng Trịnh Công Sơn là một người quốc gia!
Nhưng có một sự thật hiển nhiên mà họ không thể chối cãi được, là
trong suốt cuộc chiến của người Việt Quốc Gia chống lại sự xích hoá
của CS Quốc tế, được thực hiện bởi tay sai đắc lực là CS Hà Nội; Trịnh
Công Sơn là một tên trốn lính. Chẳng những trốn lính, chẳng những đứng
bên lề cuộc chiến, không hề chiến đấu bảo vệ chính bản thân của mình
trước làn sóng xâm lăng của CS, Trịnh Công Sơn còn tiếp tay cho công
cuộc xâm lăng của CS bằng những bài ca phản chiến!
Vào ngày 30/4/1975, Trịnh Công Sơn đã lớn tiếng minh định anh ta không
phải là người Quốc Gia khi hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát
thanh Sài Gòn để “chào mừng cách mạng thành công” vào lúc xe tăng CS
Bắc Việt vừa tới dinh Độc Lập!
Nguyễn Đắc Xuân, một người bạn rất thân của Trịnh Công Sơn, một tay
đao phủ của thành phố Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, (đệ nhất
đao phủ là Hoàng Phủ Ngọc Tường, cũng là bạn rất thân của Trịnh Công
Sơn – Trịnh Cung và Đinh Cường), viết rằng:
“Từ sau ngày Trịnh Công Sơn qua đời, nhiều dư luận trong và ngoài nước
có khuynh hướng “lôi anh về phía bên này” hoặc “đẩy anh về phía bên
kia”. Đối với Trịnh Công Sơn ai lôi anh thì cứ lôi, ai đẩy anh thì cứ
đẩy, “kệ”. Trịnh Công Sơn là Trịnh Công Sơn, ai muốn hiểu sao cứ hiểu.
Tuy nhiên cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thuộc về lịch sử, mà đã
là lịch sử thì “bên này” hay “bên kia” phải được chứng minh bằng tư
liệu, tư liệu thành văn và tư liệu sống, nói có sách mách có chứng.
Không thể phát ngôn về Trịnh Công Sơn theo cảm tính hay theo một định
kiến nào ...”. (Trịnh Công Sơn, có một thời như thế – Nguyễn Đắc Xuân
– nhà xuất bản Văn Học).
Dựa theo những “tư liệu thành văn và tư liệu sống”, Nguyễn Đắc Xuân đã
trích lại những điều sau đây do chính Trịnh Công Sơn viết xuống trong
quyển sách vừa dẫn:
Thời kỳ trốn lính.
Trước khi sống qua một thời kỳ bất ổn định, tôi đã từng có được hai
năm sống thong dong hợp pháp như tất cả mọi người đàng hoàng đứng đắn
trên mặt đất. Muốn được thế, tôi đã phải đánh đổi bằng gần sáu mươi
ngày nhịn đói tuyệt đối trong hai năm (mỗi năm 30 ngày liên tiếp trước
khi trình diện) để đạt được cái mức độ không đủ tiêu chuẩn của một
người lính. Nhưng muốn xuống kílô nhanh còn phải không ngủ và uống
thêm điamox là một thứ thuốc rút bớt nước trong các tế bào ra. Qua năm
thứ ba thì không ra trình diện nữa vì cảm thấy không đủ sức khoẻ để
lặp lại cái chế độ ăn uống không có thực phẩm ấy nữa. Trốn lính gần
như là một cái “nghề” đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh
niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù được nhìn dưới
một góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhở đến
như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám,
nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam.
Tôi đã sống lang thang như một kẻ vô gia cư, vô định trú thứ thiệt.
Thời gian không xê dịch nhiều, chỉ kéo dài khoảng ba năm, đó là lúc
tôi nhập cư cùng một số sinh viên trốn lính khác đã có mặt trong những
căn nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất rộng sau trường đại học
Văn khoa. Ở đây có một lợi thế là rất hiếm bị khám xét. Vào thời điểm
ấy, trên khoảng đất trống lại mọc thêm một cái trụ sở Hội Hoạ Sĩ trẻ
bằng gổ, hiện đa số hoạ sĩ vẫn còn có mặt trong thành phố. Giấc ngủ
của tôi cứ tùy nghi hoán chuyển từ trên cái ghế bố trong túp lều này
qua cái mặt nền xi măng của trụ sở hội nọ. Việc ăn uống đã có hàng
quán dọc đường gần đó. Rửa mặt đánh răng thì mỗi sáng vào phòng vệ
sinh của những quán cà phê quen thuộc, chỉ có việc mang theo khăn, kem
và bàn chải đánh răng.
Thế đấy, nhưng chính những năm này là những năm sôi động nhất của đời
tôi.
Sống trong tình trạng bấp bênh như thế tôi vẫn phải làm việc không
ngừng để sống. Tôi vẫn viết đều tay và vẫn tiếp tục đi hát. Những ca
khúc của tôi được in ra từng tờ rời và từng tuyển tập. Phụ trách công
việc in ấn và phát hành đã có người em ruột của tôi, cũng cùng trốn
lính, chăm lo. Việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có
lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc
và băng nhạc của tôi. Cảnh sát lúc bấy giờ được lệnh vào tận các nhà
in để truy lùng. Thế là phải đổi kế hoạch. Thay vì in trong một nhà
in, nay phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau. Tịch thu nơi này
còn nơi khác, và dĩ nhiên, chuyện đi đứng không phải dễ dàng. Đi từ
một nhà in ở vùng Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết
bao nhiêu là trạm xét hỏi.
Sau lệnh tịch thu, tất cả báo chí trong và ngoài nước đều đưa tin. Các
hãng thông tấn và truyền hình truyền thanh nước ngoài ào ạt đổ xô về
nơi ăn chốn ở rất là “híp pi” đó của tôi càng lúc càng đông. Mỗi ngày
trung bình ít lắm cũng phải ba lần phỏng vấn, thu hình, thu mặt. Tôi
bỗng trở nên người nổi tiếng bất đắc dĩ. Ban đầu cái sự kiện này cũng
mang đến cho tôi chút niềm vui nhưng càng về sau càng trở thành một
tai nạn. Họ săn đuổi tôi đến mọi chổ lánh mặt xa xôi nhất. Từ Sài Gòn
ra Huế, chỉ vài hôm sau đã thấy có mấy mạng người đủ các màu da, xứ sở
khác nhau xuất hiện ở cửa. Đời sống bỗng chốc mất đi cái tự do được
quyền không nói năng, được quyền ngồi yên tĩnh một mình mà suy ngẫm
cho đến nơi đến chốn bao nhiêu điều mình chưa biết trong cõi đời rộng
lớn này. Tôi phải sống những khoảnh khắc phù phiếm trên báo chí và
trước ông kính ấy cho đến mười ngày trước ngày thành phố được hoàn
toàn giải phóng. Giờ đây sau hai mươi năm thành phố đã mang tên Bác,
thỉnh thoảng vẫn còn những cuộc phỏng vấn của người nước ngoài, nhưng
vó không còn là một nỗi ám ảnh kinh hoàng nữa.
Nghĩ lại chuyện cũ, tôi biết rằng những cái đó có được là do tấm lòng
ưu ái của quần chúng đối với mình. Sức mạnh tình cảm của đám đông quần
chúng là một trong những tấm khiên che chở mình trước những mối đe dọa
và là những kèo cột chống đỡ tinh thần và tình cảm mình được vững vàng
trước bao nhiêu khó khăn phức tạp của cuộc sống.
Nhẩm tính lại, tôi đã hùn hạp tất cả vốn liếng của mình vào cái đại
gia đình trốn lính vừa tròn chẵn mười ba năm. Đã qua hẵn rồi cái thời
của “bèo giạt mây trôi”, của những giấc ngủ bị săn đuổi. (sđd tr.
179-183)
Thuở ấy Nhị Xuân, em ở nông trường, em ra biên giới.
Đêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa
cùng lán trại cũng khoác một màu áo khác. Mưa xuống. Hội trường dã
chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt dài. Chúng tôi
(Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi ...) cùng anh em Thanh niên Xung
phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như
thế. Đêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng
lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái Thanh niên
Xung phong nhanh nhẹn vui tươi mang cho cho chúng tôi những bát cháo
gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy, tôi đã quen đã nhìn thấy
nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng còn âm vang
tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy trong
đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe dừng lại giữa đường,
không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sang, về lại thành phố, trở lại
công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái
Thanh niên Xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất
cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng
nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây Nam.
Những tiếng hát giọng cười còn đó. Những cây mía cây dứa các bạn trồng
vẫn còn đó, vẫn lớn lên. Tôi bồi hồi nhìn ra quãng trời rộng và thấy
lại trong trí nhớ những con người trẻ trung ấy. Trong những trái tim
ấy có gì khác chúng ta không. Trong giấc ngủ ban đêm, trên những vầng
trán khoẻ mạnh ấy, đã có những cơn mơ nào. Chúng ta nói quá nhiều đến
sự tròn đầy và chúng ta quên đi sự mất mát. Chúng ta vẽ ra lắm nụ cười
mà quên đi những nỗi ngậm ngùi riêng tư. Những người bạn nhỏ đã ra đi
thật vĩnh viễn, nhưng nỗi nhớ thương về họ chưa được hát đủ như một
nỗi đau. Còn thiếu sót biết bao nhiêu điều chưa nói hết lúc ở nông
trường và càng chưa nói được một mảy may lúc ra biên giới. Làm một
điều gì chưa đến chốn với một người không còn nữa, có phải cũng đã là
phạm tội với cuộc đời rồi hay không. Xin hãy tha thứ những dòng chữ
óng mượt, những sắp xếp tinh khôn, những cân nhắc đong đưa xuôi chèo
thuận lái. (Sđd, Chương V: Phát thảo chân dung tôi – Trịnh Công Sơn.
Tr. 186-188)
Anh Sáu Dân với Trịnh Công Sơn.
Hơn hai mươi năm trước, đồng chí Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt “rủ” Trịnh Công Sơn và tôi đi khảo sát đất
Trị An. Từ chuyến đi ấy Trịnh Công Sơn và tôi cũng như một số bạn bè
gọi đồng chí Bí thư bằng anh Sáu, anh Sáu Dân rất thân mật. Chuyến đi
ấy anh mang đến cho hai đứa tôi về giấc mơ điện “Trị An”. Còn anh, anh
không chỉ mơ mà khẳng định quyết tâm và bắt tay tổ chức hiện thực.
Buổi chiều trên đường về mưa gió mịt mù. Trịnh Công Sơn và tôi ngồi
trên chiếc xe jeep.
Về đến nhà anh Sáu, áo của Sơn đổi màu mưa bụi. Còn tôi, nhờ có chiếc
áo gió, áo trong của tôi còn sạch. Anh Sáu bảo chúng tôi tắm, anh Sáu
mang chiếc áo của anh cho Sơn. Chiếc áo ấy Sơn vẫn để trong tủ áo của
mình, ít ai biết.
Anh Sáu đánh giá và bình phẩm ca khúc của Trịnh Công Sơn theo cách của
anh. Với tôi anh Sáu là một nghệ sĩ, nghệ sĩ với con người chiến sĩ
của anh. Không hề có khoảng cách về tuổi tác, về cương vị xã hội, hai
người nghệ sĩ ấy đã gặp nhau, đã trở thành một đôi bạn chia sẻ nhiều
nổi niềm không thành lời, không thành tiếng. Những năm khó khăn, cơm
độn bo bo, có lần anh Sáu gởi gạo đến gia đình Trịnh Công Sơn.
Có một lần anh Sáu tâm sự với Sơn “Anh em trí thức ở thành phố mình bỏ
đi nhiều quá. Mỗi người mỗi cương vị, làm sao giữ anh em lại, cùng xây
dựng đất nước”. Sau đó Trịnh Công Sơn viết ca khúc “Em còn nhớ hay em
đã quên”. Lần thứ hai, anh Sáu nói với Sơn “Trong lúc khó khăn này,
làm sao mọi người đều có niềm tin, niềm vui, vượt lên khó khăn để xây
dựng Thành phố ...”. Sau đó, Trịnh Công Sơn cho ra bài “Mỗi ngày tôi
chọn một niềm vui”.
Sau này anh Sáu về Trung Ương, ở cương vị Phó Thủ Tướng, Thủ Tướng, Cố
Vấn BCH Trung Ương Đảng, dù ở cương vị nào, mỗi lần về Sài Gòn, ngoài
công việc, anh hay gặp gở lại bạn bè. Trong những cuộc gặp gỡ ấy,
thường có Trịnh Công Sơn. Những cuộc gặp ấy bao giờ Trịnh Công Sơn
cũng ngồi gần anh Sáu, như không thể cách xa nhau. Theo tôi hiểu, ít
có người Việt Nam nào đi khắp mọi miền như anh. Anh đến cả những vùng
sâu vùng xa đến nỗi, chánh quyền địa phương cũng chưa đặt chân đến.
Anh kể với chúng tôi về những chuyến đi. Rồi ai có sáng tác nào mới,
hát cho anh nghe. Trần Long Ẩn chuyên hát lời hai, lời ba. Nguyễn Duy
đọc thơ, Trịnh Công Sơn chưa có bài mới thì tùy hứng. Một lần chị Sáu
(vợ anh Sáu) nói “Sao mà tôi thích cái câu - sỏi đá cũng cần có nhau -
sâu xa quá!”. Thế là Trịnh Công Sơn cầm đàn hát “Diễm Xưa”. Thật khó
có người nào hát hay bằng Sơn hát về mình.
Có một lần, tôi kể với Trịnh Công Sơn, anh Sáu nói với tôi rằng anh
Sáu vừa nghe đài Hoa Kỳ hai buổi lúc 5h30 sáng, đài Hoa Kỳ bình luận
về ba nhạc sĩ lớn của Việt Nam:  Văn Cao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn,
đài Hoa Kỳ bình luận, ca từ của Trịnh Công Sơn là lời của phù thủy. Họ
không giải nỗi ý nghĩa nhiều tầng, nhiều góc ca từ của Trịnh Công Sơn,
nên đành phải nói là lời của phù thủy. Anh Sáu thích lắm! Trịnh Công
Sơn không ngạc nhiên nhiều về lời bình của đài Hoa Kỳ mà ngạc nhiên:
“Anh Sáu theo dõi kỹ vậy à? Thế mà anh em mình không ai biết”.
Anh Sáu quý trọng tài năng của Trịnh Công Sơn và rất yêu con người và
tính cách của Sơn có khi hồn nhiên như trẻ thơ.
Có một đêm, anh Sáu rủ Sơn và tôi đến chơi. Anh Sáu mang chai Mao Đài
đãi hai chúng tôi. Sơn xỉn. Thế là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bắt đầu dạy
Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm chánh trị. “Anh đi Nhật mà không gọi em là
không chính trị. Nhật họ quý em lắm. Anh đi nước ngoài anh phải thế
này, thế kia, thế nọ ...”. Anh Sáu và tôi cứ cười, Sơn thì vẫn cứ thao
thao.
Hôm sau tỉnh rượu, tôi lại với Sơn, Sơn ngửa mặt cười:
-Có thật vậy à? Anh Sáu có giận mình không?
-Không! Anh Sáu vui!
-Lần sau nhớ nhắc mình nhé!. Tôi thầm nghĩ, Sơn phải là Sơn nhắc làm
gì?
Vào một ngày cuối tháng ba năm nay, tôi gặp anh Sáu, anh Sáu hỏi thăm
Sơn. Tôi báo anh, Sơn bịnh nhiều, Sơn đang cấp cứu trong bịnh viện.
Anh nói:
Mai mình đi Hà Nội, sau Đại hội Đảng mình về, mình thăm Sơn, các em
Sơn. Xem nước ngoài nào chữa được Sơn, mình tạo điều kiện để Sơn đi.
Nhưng không kịp nữa, chiều ngày 1/4/2001 tôi gọi điện thoại cho anh
“Anh Sáu ơi! Sơn mất rồi...” Anh hỏi, anh nói nhưng tôi không nhớ gì,
chỉ nhớ “Đau lòng quá!” và chị Sáu kêu lên “... buồn quá ...”.
Buổi chiều ngày 3/4/2001, vào 18 giờ, tôi nhận được điện thoại của
anh, anh chị đi thăm mộ Trịnh Công Sơn đang trên đường về, hẹn tôi ở
nhà Trịnh Công Sơn.
Buổi gặp này có anh Sáu, chị Sáu, các em của Trịnh Công Sơn, anh Phạm
Phú Ngọc Trai và tôi. Anh hỏi những ngày cuối cùng của Sơn ... Anh
nói:
-Những năm sau này, Sơn yếu nhưng sức sáng tác của Sơn rất dồi dào.
Mỗi lần gặp lại là Sơn có sáng tác mới. Ca từ trong ca khúc sau này
của Sơn càng thâm thúy. Ai nghe cũng thấy mình ở trong ấy. Sơn đi là
một mất mát lớn, không chỉ cho nền âm nhạc nước nhà mà là còn sự mất
mát nhiều mặt của nền văn hóa Việt Nam. Thương và tiếc, tiếc quá! Một
mất mát lớn, rất lớn.
Anh Phạm Phú Ngọc Trai thêm một vòng thông tin:  “Nước ngoài đánh giá
Trịnh Công Sơn không chỉ là một danh nhân Việt Nam mà còn là danh nhân
thế giới”. Anh Sáu trầm ngâm khẽ gật gù.
Tôi nói:  “Lúc sinh thời Sơn vắng mặt chổ này chổ kia, nhưng khi Sơn
ra đi, Sơn có mặt khắp mọi nơi”. Chúng tôi đều gặp nhau trong ý nghĩ
về Sơn.
Có một lần nhà thơ Nguyễn Duy nói với tôi:  “Với anh Sáu thì mình phục
rồi. Riêng tôi có điều phục nữa, anh Sáu là người rất dí dỏm, người
biết đùa là người trẻ, người thông minh, mình là người thích nói đùa,
mà nhiều khi mình đối đáp k

Không có nhận xét nào: