Ngày xưa (và ngày nay nữa) tôi rất mê ca khúc "Áo anh sức chỉ đường tà" do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bài thơ "Đồi tím hoa sim" của thi sĩ Hữu Loan. Hay lắm. Bài nhạc mang âm điệu bi hùng, nhưng tình cảm, nghe hoài không chán. Bài thơ này được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc (trong đó có bài mang hơi hám "sến" như bài của Dũng Chinh), nhưng tôi vẫn thấy bài của Phạm Duy hay hơn nhiều.Đến hôm nay đọc bài này mới biết Hữu Loan vẫn còn sống và từng có một cuộc đời đầy sóng gió ... Xin giới thiệu cùng các bạn một bài viết mà tôi cho là hay.NVT========http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=109475&ChannelID=7
Tác giả 'Màu tím hoa sim' ngày ấy, bây giờ...
TP - Cả ba lớp cửa từ đường làng vào vườn, vườn vào sân, sân vào nhà của nhà thơ Hữu Loan đều khép hờ. Ai ra vào tuỳ ý. Nhưng xem ra cũng ít người qua lại, trừ đám trẻ, như bà cụ hàng xóm nói, chúng kéo đến vào mùa nhãn, cho đến khi bói không ra một quả, rồi thôi,...
Nhà thơ Hữu Loan - Ảnh từ InternetBà cụ hàng xóm mau mắn: Các bác có lòng đến thăm cụ Tú thì cứ vào, chứ gọi cửa cũng không có người ra đón đâu. Cụ Tú con đàn cháu đống, ra ở riêng cả rồi, về già chỉ còn lại hai cái bóng mướp. Cụ Tú có nhà đấy, chắc lại đang ngồi ngắm rượu.
Nhà thơ đang ngồi ngắm rượu thật, trên manh chiếu trải ngoài hiên, tựa lưng vào tường, hai đầu gối so lên cằm, mái tóc bạc trắng rũ xuống, mắt nhìn đắm đuối vào chén rượu trên tay.
Mâm bát sơ sài, chỉ một quả chuối xanh, nhúm muối và đôi đũa lệch. Nhà văn xứ Thanh Kiều Vượng nói với tôi, mỗi năm vài lần đến thăm Hữu Loan, lần nào cũng gặp ông ngồi nhìn chén rượu thế kia, chỉ nhìn mà ít uống.
Ông đang sáng tác hay chỉ ngồi ngắm chén rượu như một thói quen của một thượng thọ ngoài tám mươi? Tôi không biết. Kiều Vượng cũng chịu. Chỉ có nhà thơ Trịnh Thanh Sơn, cùng quê Nga Sơn, từng nhiều lần hầu rượu ông Loan, thì dám chắc thi sĩ đang nghĩ về thơ đấy, nghĩ lạ lắm, chả giống ai.
Đời thơ của ông bắt đầu từ Đèo Cả, khép lại là Hoa lúa, vỏn vẹn mươi bài, nhưng ông nghĩ về thơ, người thơ, cõi thơ thì cả đời, nếu chép ra thì cả bộ trường thiên.
Thi bá cho rằng thơ thuộc về âm, nghĩa là thuộc về đêm, thuộc về trăng, con nước, thuộc về đàn bà. Người nào có sao Thái âm đóng cung mệnh, người đó mới làm được thơ, mới trở thành nhà thơ.
Thơ thuộc hành thuỷ, mềm đấy mà cứng đấy, thấy trước mặt mà không nắm được trong tay, ngỡ là hữu hình mà hoá ra vô hình. Bởi vậy trong thơ thường có trăng, có sông, lại khăng khít với nhau, tạo những suối nước.
Ngày trăng viên mãn, thì nước ngập tràn. Ngày trăng hao mòn thì con nước ngẹn ngào. Bản chất của thơ là buồn, là cô đơn, là hiu quạnh. Khi vui người ta hát. Khi buồn người ta đọc thơ.
Kiếp nhân sinh có vui có buồn. Khi buồn người ta cần có thơ để vịn mà đi. Thơ trường tồn là vậy. Bao nhiêu rượu quê Nga Sơn, bao nhiêu chiều ngồi ngắm rượu trên tay của một đời thơ để ông cảm về thơ, nghĩ về thơ tràn đầy và thâm hậu đến như vậy ?
Nhà thơ ngồi đó, trước mặt tôi, như ngồi để chờ một phép lạ giúp ông được tan vào thứ ánh sáng vườn chiều sâm sẫm bò loang trên cỏ rác.
Giá thử không có chúng tôi đánh động thì cơ chừng ông sắp tan vào chiều quê thật. Được thế thì sướng quá, nhưng trời lại chưa cho nên xem cái dáng ông ngồi ngắm chén rượu thấy cái vẻ thi nhân chưa được thư thái, mãn nguyện, buông xuôi sự đời của trưởng lão, mà vẫn như để tự giam mình cho đến cõi khổ tận cam lai của đời người bao vuông tròn...
Trong các nhà thơ thuộc thế hệ đầu cách mạng, có lẽ Hữu Loan là người nhiều bước thăng trầm hơn cả. Ông người quê nghèo Nga Sơn, Thanh Hoá, từ nhỏ, nói như Nam Cao, ít khi được thoả cơm nhưng ham học, lại sáng dạ nên hai mươi tuổi đã đậu tú tài.
Đến tận bây giờ bà con láng giềng vẫn cứ một cụ Tú Loan, hai cụ Tú Loan là vậy. Cậu Tú học trường Tây, nhưng không đi làm cho Tây ở Sở Dây thép, mà mở trường dạy trẻ và hoạt động trong phong trào Mặt trận Bình dân rồi tham gia Việt Minh.
Những ngày cách mạng Tháng Tám ông 29 tuổi, được cử làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn.
Trong cuộc mít tinh phát động Tuần lễ vàng, hàng ngàn người xứ Thanh vây quanh anh cán bộ Việt Minh trẻ, đẹp trai, diễn thuyết dõng dạc đầy cảm hứng và mới mẻ về cách mạng, về chính quyền nhân dân, về nghĩa vụ người dân với nước Việt mới độc lập có sức cuốn hút kỳ lạ, khiến cho nhiều người sẵn sàng góp công, góp của ủng hộ kháng chiến.
Anh cán bộ Việt Minh tài hoa ấy chính là Hữu Loan, thành viên Uỷ ban Lâm thời tỉnh Thanh Hoá, phụ trách bốn ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính.
Cũng buổi sáng diễn thuyết này có cô học trò 16 tuổi vô cùng ngưỡng mộ tài hoa cậu Tú Loan ngày nào đã cởi vòng xuyến vàng góp cho kháng chiến.
Kháng chiến bùng nổ, Hữu Loan làm công tác tuyên truyền, phụ trách tờ báo Chiến sĩ ở Mặt trận miền Trung.
Hữu Loan có chuyến đi công tác nhớ đời, giống tráng sĩ, cưỡi con ngựa đực bất kham từ Huế rong ruổi dọc miệt rừng miền Trung, đến với các đội quân mới từ thành phố, làng quê đồng bằng kéo lên bưng biền, tựa thế hiểm của núi non hùng vĩ dựng trận địa, bước vào cuộc chiến đấu lần thứ nhất đầy khí phách: Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
Thay vì viết những phóng sự, chủ bút Hữu Loan lấy thơ để diễn tả những tình cảm trào dâng trước thiên nhiên và người lính vạm vỡ, gân guốc, đầy nhiệt huyết buổi đầu cách mạng
Đèo Cả !
Đèo Cả !Núi cao ngất !Mây trời Ai LaoSầu đại dươngDặm về heo hútĐá bia mù sương !Bên quán Hồng quânNgườingựamỏiNhìn dốcngồi thanthương ailênđường... Râu ngượcchào nhau bên sườn núiGiặc từ vũng Rô bắn tớiGiặc từ trong tràn raNhưng Đèo CảvẫngiữvữngChân đèo nammáu giặcbao lầnnắng khôSau mỗi lần thắngNhững người lính Đèo CảVề bên suốiđánh cờNgười hái cam rừngăn nheo mắtNgười vá áothiếu kimmài sắtNgười đập mảnh chai vểnh cằmcạo râuSuối mang bóng ngườisoinhữngvềđâu ? !
Sau này nhìn lại lịch sử văn học cách mạng, Đèo Cả cùng với Nhớ máu của Trần Mai Ninh được xếp lên vị trí mở đầu thời đại thơ ca mới.
Nhưng bấy giờ với Hữu Loan, Đèo Cả chỉ như lời tâm sự ông dồn nén, về cuộc kháng chiến sinh tử của dân tộc, viết để gửi cho một người đọc, cô Đỗ Thị Ninh, người học trò cũ đã hào phóng cởi xuyến vàng góp cho kháng chiến.
Họ nên vợ nên chồng vào hai năm sau đó, đầu năm 1948, bấy giờ Hữu Loan là cán bộ tuyên huấn của một đơn vị chủ lực.
Trong chiến tranh thật khó có hạnh phúc trọn vẹn. Chỉ bảy tháng sau ngày cưới, Hữu Loan đang ở chiến trường, nhận tin vợ mất. Tráng sĩ Hữu Loan khóc vợ bằng Màu tím hoa sim làm xúc động bạn đọc nhiều thế hệ.
Tôi người Vệ quốc quânxa gia đìnhYêu nàngnhư tình yêu em gáiNgày hợp hônnàng không đòimay áo mớiTôi mặc đồ quân nhânđôi giày đinhbết bùn đất hành quânNàng cười xinh xinhbên anh chồng độc đáoTôi ở đơn vị vềcưới nhau xonglà điTừ chiến khu xa....nhớ về ái ngạiLấy chồng đời chiến chinh mấy người đi trở lạiNhỡ khi mình không vềthì thươngngười vợ chờbé bỏngchiều quê !... Chiều hành quân qua những đồi hoa simnhững đồi hoa simNhững đồi hoa sim dàitrong chiềukhông hếtMàu tím hoa simTímchiều hoangbiền biệtNhìn áo rách vaitôi hát trong màu hoa“áo anh sứt chỉ đường tàVợ anh mất sớmmẹ già chưa khâu”
Từ đây, sau Màu tím hoa sim nỗi đau riêng về hạnh phúc làm thay đổi tâm tính thi nhân. Chiến binh Hữu Loan hào hoa, phong trần, cưỡi ngựa, đeo gươm ra trận làm thơ hào sảng đổi chỗ cho một Hữu Loan thâm trầm, sâu nặng tình nghĩa con người.
Hoa lúa, Yên Mô, Những làng đi qua... những bài thơ sau nỗi đau Màu tím hoa sim là những chấm phá tình quê, tình người kháng chiến...
Hữu Loan đi qua chín năm kháng chiến với mười bài thơ. Và đó cũng là toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Sang hòa bình, sóng gió của những đổi thay đã đẩy ông rẽ sang hướng khác.
Nhà thơ Hữu Loan và các bạn văn nhiều thế hệ (tác giả ngồi ngoài cùng, bên phải)
Bước thăng trầm của ông bắt đầu từ cuối năm 1957. Một đêm Hà Hội nhiều sương muối, buốt giá, ông và nhạc sĩ Văn Cao trắng đêm dạo quanh hồ Thiền Quang. Đến sáng thì Văn Cao tiễn ông ra bến xe để ông trở về quê Nga Sơn kiếm kế sinh nhai.
Bấy giờ Nga Sơn, Thanh Hóa quê ông nghèo lắm. Ông lại tay trắng dắt vợ con về, biết sống sao đây. Buổi chiều đầu tiên về thôn Vân Hoàn, thay vì đi thăm hỏi láng giềng ông cắp be rượu lên núi đá đầu thôn.
Bạn ông, người cùng thời, nhà thơ Trần Dần có câu thơ làm ông sởn gai ốc: Cuối phố có ngọn đèn thắt cổ / Hãy chỉ cho tôi chỗ nào tôi đổ bớt tôi đi. Trần Dần đổ nỗi buồn thi nhân thăm thẳm vào đâu, ông chưa hình dung ra, nhưng với ông, ở Nga Sơn này, ông chỉ còn biết đổ lên đá mà càm cắp vợ con qua cơn giáp hạt.
Vốn có sức như trai lực điền, lại ở bước cùng, không thể ngồi ngâm thơ nhìn các con hết gạo, ông tưới rượu lên mặt đá mà thề sẽ bám đá để sống.
Một chiếc xe cút kít. Một đôi quang sắt. Một xà beng. Một cuốc chim. Một chiếc đòn gánh bằng cả khúc tre ngâm. Ông nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít thô sơ đem đi bán ở các lò thợ làm cối, làm thớt, làm kê chân cột và làm vật liệu xây dựng.
Bán cả chục xe đá mới kiếm đủ ngày hai bữa cơm dưa muối cho đàn con. Đã thế, nhiều khi ế ẩm, đá chất đầy vườn, cả tháng không ai hỏi mua. Một năm, hai năm, ba năm...
Tác giả 'Màu tím hoa sim' ngày ấy, bây giờ...
TP - Cả ba lớp cửa từ đường làng vào vườn, vườn vào sân, sân vào nhà của nhà thơ Hữu Loan đều khép hờ. Ai ra vào tuỳ ý. Nhưng xem ra cũng ít người qua lại, trừ đám trẻ, như bà cụ hàng xóm nói, chúng kéo đến vào mùa nhãn, cho đến khi bói không ra một quả, rồi thôi,...
Nhà thơ Hữu Loan - Ảnh từ InternetBà cụ hàng xóm mau mắn: Các bác có lòng đến thăm cụ Tú thì cứ vào, chứ gọi cửa cũng không có người ra đón đâu. Cụ Tú con đàn cháu đống, ra ở riêng cả rồi, về già chỉ còn lại hai cái bóng mướp. Cụ Tú có nhà đấy, chắc lại đang ngồi ngắm rượu.
Nhà thơ đang ngồi ngắm rượu thật, trên manh chiếu trải ngoài hiên, tựa lưng vào tường, hai đầu gối so lên cằm, mái tóc bạc trắng rũ xuống, mắt nhìn đắm đuối vào chén rượu trên tay.
Mâm bát sơ sài, chỉ một quả chuối xanh, nhúm muối và đôi đũa lệch. Nhà văn xứ Thanh Kiều Vượng nói với tôi, mỗi năm vài lần đến thăm Hữu Loan, lần nào cũng gặp ông ngồi nhìn chén rượu thế kia, chỉ nhìn mà ít uống.
Ông đang sáng tác hay chỉ ngồi ngắm chén rượu như một thói quen của một thượng thọ ngoài tám mươi? Tôi không biết. Kiều Vượng cũng chịu. Chỉ có nhà thơ Trịnh Thanh Sơn, cùng quê Nga Sơn, từng nhiều lần hầu rượu ông Loan, thì dám chắc thi sĩ đang nghĩ về thơ đấy, nghĩ lạ lắm, chả giống ai.
Đời thơ của ông bắt đầu từ Đèo Cả, khép lại là Hoa lúa, vỏn vẹn mươi bài, nhưng ông nghĩ về thơ, người thơ, cõi thơ thì cả đời, nếu chép ra thì cả bộ trường thiên.
Thi bá cho rằng thơ thuộc về âm, nghĩa là thuộc về đêm, thuộc về trăng, con nước, thuộc về đàn bà. Người nào có sao Thái âm đóng cung mệnh, người đó mới làm được thơ, mới trở thành nhà thơ.
Thơ thuộc hành thuỷ, mềm đấy mà cứng đấy, thấy trước mặt mà không nắm được trong tay, ngỡ là hữu hình mà hoá ra vô hình. Bởi vậy trong thơ thường có trăng, có sông, lại khăng khít với nhau, tạo những suối nước.
Ngày trăng viên mãn, thì nước ngập tràn. Ngày trăng hao mòn thì con nước ngẹn ngào. Bản chất của thơ là buồn, là cô đơn, là hiu quạnh. Khi vui người ta hát. Khi buồn người ta đọc thơ.
Kiếp nhân sinh có vui có buồn. Khi buồn người ta cần có thơ để vịn mà đi. Thơ trường tồn là vậy. Bao nhiêu rượu quê Nga Sơn, bao nhiêu chiều ngồi ngắm rượu trên tay của một đời thơ để ông cảm về thơ, nghĩ về thơ tràn đầy và thâm hậu đến như vậy ?
Nhà thơ ngồi đó, trước mặt tôi, như ngồi để chờ một phép lạ giúp ông được tan vào thứ ánh sáng vườn chiều sâm sẫm bò loang trên cỏ rác.
Giá thử không có chúng tôi đánh động thì cơ chừng ông sắp tan vào chiều quê thật. Được thế thì sướng quá, nhưng trời lại chưa cho nên xem cái dáng ông ngồi ngắm chén rượu thấy cái vẻ thi nhân chưa được thư thái, mãn nguyện, buông xuôi sự đời của trưởng lão, mà vẫn như để tự giam mình cho đến cõi khổ tận cam lai của đời người bao vuông tròn...
Trong các nhà thơ thuộc thế hệ đầu cách mạng, có lẽ Hữu Loan là người nhiều bước thăng trầm hơn cả. Ông người quê nghèo Nga Sơn, Thanh Hoá, từ nhỏ, nói như Nam Cao, ít khi được thoả cơm nhưng ham học, lại sáng dạ nên hai mươi tuổi đã đậu tú tài.
Đến tận bây giờ bà con láng giềng vẫn cứ một cụ Tú Loan, hai cụ Tú Loan là vậy. Cậu Tú học trường Tây, nhưng không đi làm cho Tây ở Sở Dây thép, mà mở trường dạy trẻ và hoạt động trong phong trào Mặt trận Bình dân rồi tham gia Việt Minh.
Những ngày cách mạng Tháng Tám ông 29 tuổi, được cử làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn.
Trong cuộc mít tinh phát động Tuần lễ vàng, hàng ngàn người xứ Thanh vây quanh anh cán bộ Việt Minh trẻ, đẹp trai, diễn thuyết dõng dạc đầy cảm hứng và mới mẻ về cách mạng, về chính quyền nhân dân, về nghĩa vụ người dân với nước Việt mới độc lập có sức cuốn hút kỳ lạ, khiến cho nhiều người sẵn sàng góp công, góp của ủng hộ kháng chiến.
Anh cán bộ Việt Minh tài hoa ấy chính là Hữu Loan, thành viên Uỷ ban Lâm thời tỉnh Thanh Hoá, phụ trách bốn ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính.
Cũng buổi sáng diễn thuyết này có cô học trò 16 tuổi vô cùng ngưỡng mộ tài hoa cậu Tú Loan ngày nào đã cởi vòng xuyến vàng góp cho kháng chiến.
Kháng chiến bùng nổ, Hữu Loan làm công tác tuyên truyền, phụ trách tờ báo Chiến sĩ ở Mặt trận miền Trung.
Hữu Loan có chuyến đi công tác nhớ đời, giống tráng sĩ, cưỡi con ngựa đực bất kham từ Huế rong ruổi dọc miệt rừng miền Trung, đến với các đội quân mới từ thành phố, làng quê đồng bằng kéo lên bưng biền, tựa thế hiểm của núi non hùng vĩ dựng trận địa, bước vào cuộc chiến đấu lần thứ nhất đầy khí phách: Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
Thay vì viết những phóng sự, chủ bút Hữu Loan lấy thơ để diễn tả những tình cảm trào dâng trước thiên nhiên và người lính vạm vỡ, gân guốc, đầy nhiệt huyết buổi đầu cách mạng
Đèo Cả !
Đèo Cả !Núi cao ngất !Mây trời Ai LaoSầu đại dươngDặm về heo hútĐá bia mù sương !Bên quán Hồng quânNgườingựamỏiNhìn dốcngồi thanthương ailênđường... Râu ngượcchào nhau bên sườn núiGiặc từ vũng Rô bắn tớiGiặc từ trong tràn raNhưng Đèo CảvẫngiữvữngChân đèo nammáu giặcbao lầnnắng khôSau mỗi lần thắngNhững người lính Đèo CảVề bên suốiđánh cờNgười hái cam rừngăn nheo mắtNgười vá áothiếu kimmài sắtNgười đập mảnh chai vểnh cằmcạo râuSuối mang bóng ngườisoinhữngvềđâu ? !
Sau này nhìn lại lịch sử văn học cách mạng, Đèo Cả cùng với Nhớ máu của Trần Mai Ninh được xếp lên vị trí mở đầu thời đại thơ ca mới.
Nhưng bấy giờ với Hữu Loan, Đèo Cả chỉ như lời tâm sự ông dồn nén, về cuộc kháng chiến sinh tử của dân tộc, viết để gửi cho một người đọc, cô Đỗ Thị Ninh, người học trò cũ đã hào phóng cởi xuyến vàng góp cho kháng chiến.
Họ nên vợ nên chồng vào hai năm sau đó, đầu năm 1948, bấy giờ Hữu Loan là cán bộ tuyên huấn của một đơn vị chủ lực.
Trong chiến tranh thật khó có hạnh phúc trọn vẹn. Chỉ bảy tháng sau ngày cưới, Hữu Loan đang ở chiến trường, nhận tin vợ mất. Tráng sĩ Hữu Loan khóc vợ bằng Màu tím hoa sim làm xúc động bạn đọc nhiều thế hệ.
Tôi người Vệ quốc quânxa gia đìnhYêu nàngnhư tình yêu em gáiNgày hợp hônnàng không đòimay áo mớiTôi mặc đồ quân nhânđôi giày đinhbết bùn đất hành quânNàng cười xinh xinhbên anh chồng độc đáoTôi ở đơn vị vềcưới nhau xonglà điTừ chiến khu xa....nhớ về ái ngạiLấy chồng đời chiến chinh mấy người đi trở lạiNhỡ khi mình không vềthì thươngngười vợ chờbé bỏngchiều quê !... Chiều hành quân qua những đồi hoa simnhững đồi hoa simNhững đồi hoa sim dàitrong chiềukhông hếtMàu tím hoa simTímchiều hoangbiền biệtNhìn áo rách vaitôi hát trong màu hoa“áo anh sứt chỉ đường tàVợ anh mất sớmmẹ già chưa khâu”
Từ đây, sau Màu tím hoa sim nỗi đau riêng về hạnh phúc làm thay đổi tâm tính thi nhân. Chiến binh Hữu Loan hào hoa, phong trần, cưỡi ngựa, đeo gươm ra trận làm thơ hào sảng đổi chỗ cho một Hữu Loan thâm trầm, sâu nặng tình nghĩa con người.
Hoa lúa, Yên Mô, Những làng đi qua... những bài thơ sau nỗi đau Màu tím hoa sim là những chấm phá tình quê, tình người kháng chiến...
Hữu Loan đi qua chín năm kháng chiến với mười bài thơ. Và đó cũng là toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Sang hòa bình, sóng gió của những đổi thay đã đẩy ông rẽ sang hướng khác.
Nhà thơ Hữu Loan và các bạn văn nhiều thế hệ (tác giả ngồi ngoài cùng, bên phải)
Bước thăng trầm của ông bắt đầu từ cuối năm 1957. Một đêm Hà Hội nhiều sương muối, buốt giá, ông và nhạc sĩ Văn Cao trắng đêm dạo quanh hồ Thiền Quang. Đến sáng thì Văn Cao tiễn ông ra bến xe để ông trở về quê Nga Sơn kiếm kế sinh nhai.
Bấy giờ Nga Sơn, Thanh Hóa quê ông nghèo lắm. Ông lại tay trắng dắt vợ con về, biết sống sao đây. Buổi chiều đầu tiên về thôn Vân Hoàn, thay vì đi thăm hỏi láng giềng ông cắp be rượu lên núi đá đầu thôn.
Bạn ông, người cùng thời, nhà thơ Trần Dần có câu thơ làm ông sởn gai ốc: Cuối phố có ngọn đèn thắt cổ / Hãy chỉ cho tôi chỗ nào tôi đổ bớt tôi đi. Trần Dần đổ nỗi buồn thi nhân thăm thẳm vào đâu, ông chưa hình dung ra, nhưng với ông, ở Nga Sơn này, ông chỉ còn biết đổ lên đá mà càm cắp vợ con qua cơn giáp hạt.
Vốn có sức như trai lực điền, lại ở bước cùng, không thể ngồi ngâm thơ nhìn các con hết gạo, ông tưới rượu lên mặt đá mà thề sẽ bám đá để sống.
Một chiếc xe cút kít. Một đôi quang sắt. Một xà beng. Một cuốc chim. Một chiếc đòn gánh bằng cả khúc tre ngâm. Ông nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít thô sơ đem đi bán ở các lò thợ làm cối, làm thớt, làm kê chân cột và làm vật liệu xây dựng.
Bán cả chục xe đá mới kiếm đủ ngày hai bữa cơm dưa muối cho đàn con. Đã thế, nhiều khi ế ẩm, đá chất đầy vườn, cả tháng không ai hỏi mua. Một năm, hai năm, ba năm...
Hữu Loan trở thành người thợ đá da đen như sừng, chân tay sần sẹo, tua tủa tóc rễ tre, đi đứng nói năng mạnh mẽ. Cặm cụi vật lộn với núi đá ông nuôi cả mười đứa con khôn lớn.
Đến giờ cả mười đứa con đã có chín nên vợ nên chồng, sinh cho ông đàn cháu 37 đứa. Chỉ còn cậu út là chưa lập gia đình.
Hữu Loan thôi bám núi đá đã mười năm nay. Ông lui về nhà, trải chiếu trên thềm, ngày ngày ngồi uống rượu, ngắm rượu và ngóng đợi con cháu về thăm nhà, ngóng đợi những chuyển động đổi thay của làng xóm, của gia đình mình, của phận mình.
Dằng dặc ngóng đợi, vận may cũng đã đôi lần gõ cửa nhà ông. Bắt đầu là toà soạn báo Văn nghệ, cơ quan ông công tác gần bốn mươi năm trước đưa đến tận nhà cho ông sổ hưu, với mức lương gần hai trăm ngàn đồng/tháng.
Rồi chờ thêm vài năm nữa ông được xuất bản tập thơ đầu tiên trong đời, tập Màu tím hoa sim với mười bài thơ ông viết từ thời kháng chiến.
Lại đợi, ông được trời ban phúc, con trai út, chú bé ra đời trên lèn đá tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Hà Nội. Cậu út kiến trúc sư đang tham gia quy hoạch Dự án bảo tồn khu di tích Bác Hồ ở Kim Liên, Nghệ An.
Nghe tin con thành đạt ông cứ ngẩn ngơ tiếc nuối, giá còn sức như ngày nào, ông sẽ chở một xe cút kít đá ở cái núi đá từng nuôi sống gia đình ông về tận Kim Liên mà góp cho dự án bảo tồn một vài viên đá lát đường.
Không biết có còn vận may nào đến nữa không, Hữu Loan vẫn chờ. Cái chỗ bao nhiêu năm ngồi uống rượu, ngắm rượu và chờ đợi, mồ hôi thấm lên tường hình một bờ vai. Hình bờ vai lún dần, lún dần xuống thấp, có dễ không lâu nữa ngả hẳn xuống gần mặt chiếu.
Tôi ghé sát tai ông:
- Thưa bác, bác có làm thơ nữa không?
Hữu Loan vẫn nhìn chén rượu:
- Có. Nhưng toàn thơ đểu - Bỗng nhiên ông cất tiếng cười, cười khà khà, mãn nguyện.
- Bác thử đọc vài câu thơ đểu cho con nghe với nào ?
Hữu Loan ngồi im. Lát sau ông nói :
- Đọc Đèo Cả thì đọc, chứ đọc thơ đểu phí rượu.
Rồi ông như người bất ngờ vùng tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, tinh nhanh, hoạt bát hẳn ra, giọng vang và còn sáng. Ông đọc hết Đèo Cả không hề vấp váp. Đọc xong, ông vơ lấy chén rượu, nhưng không uống, chỉ nhìn mà nước mắt rơi.
Hà Đình Cẩn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét