29/1/14

Tại sao Cộng Sản giết Phạm Quỳnh?



Việt Minh cộng sản đã giết Phạm Quỳnh (1892-1945) hai lần: Lần thứ nhất hạ sát, che giấu và phi tang thân xác ông tại Huế năm 1945. Lần thứ hai, bóp méo lịch sử, viết sai lạc về Phạm Quỳnh, nhằm hủy diệt luôn sự nghiệp và thanh danh của ông. Một câu hỏi cần được đặt ra là lúc đó Phạm Quỳnh đã rút lui khỏi chính trường, tại sao cộng sản lại giết Phạm Quỳnh, trong khi cộng sản không giết Trần Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các Trần Trọng Kim, là những người đang còn hoạt động? Câu hỏi nầy cần tách ra làm hai phần để dễ tìm hiểu:

Thứ nhất
Từ khi đến Trung Hoa hoạt động năm 1924, Hồ Chí Minh, điệp viên của Đê Tam Quốc tế Cộng sản, lúc đó có tên Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, đã chủ trương “giết tiềm lực”. Giết tiềm lực là tiêu diệt tất cả những cá nhân có khả năng tiềm tàng mà không chịu theo chủ nghĩa cộng sản hay đảng Cộng Sản, có thể sẽ có hại cho đảng Cộng sản trong tương lai. Những người nầy về sau có thể sẽ hoạt động chính trị và có thể sẽ gây trở ngại, gây nguy hiểm cho sự phát triển của cộng sản. Nạn nhân danh tiếng đầu tiên của chủ trương giết tiềm lực của Hồ Chí Minh là Phan Bội Châu (1867-1940). Phan Bội Châu bị Lý Thụy bán tin cho Pháp, để Pháp bắt Phan Bội Châu năm 1925 tại nhà ga Thượng Hải, nhằm đoạt lấy tổ chức của Phan Bội Châu. (Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, bản dịch của Nguyễn Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.)
Từ đó, Hồ Chí Minh và phe đảng thi hành chủ trương giết tiềm lực, ngầm thủ tiêu rất nhiều thanh niên sinh viên hoạt động chính trị, và nhất là năm 1945, khi nắm được quyền lực, Việt Minh (VM), mặt trận ngoại vi của Ðảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), đã giết hầu hết những nhân tài không theo VM.
Tại Huế, VM tìm tất cả các cách nhắm cô lập vua Bảo Đại. Cách tốt nhất là cách ly nhà vua với những người có khả năng và uy tín thân cận bên cạnh nhà vua, trong đó quan trọng hơn cả là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi. Do đó, VM ra lệnh bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi cùng con của ông Khôi là Ngô Đình Huân ngày 23-8-1945. Đồng thời VM sắp đặt những người của VM như Tạ Quang Bửu, Phạm Khắc Hòe vây quanh rỉ tai nhà vua, phóng đại về kháng chiến, về Việt Minh. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tr. 184.)
Theo David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power, sau khi Phạm Quỳnh và hai cha con Ngô Đình Khôi bị bắt, người Nhật can thiệp một cách yếu ớt không hiệu quả. Ngày 28-8, sáu người Pháp nhảy dù xuống một địa điểm cách kinh thành Huế khoảng 20 cây số nhắm mục đích bắt liên lạc với vua Bảo Đại và các cựu quan Nam triều. Lúc đầu, VM địa phương tưởng những người Pháp nầy là người của phe Đồng Minh, cho họ trú tạm tại một ngôi nhà thờ, nhưng khi biết rằng đây là những người Pháp có ý định tìm cách liên lạc với các quan chức Nam triều cũ, VM liền giết bốn người, và cầm tù hai người đến tháng 6-1946. (David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực] University of California Press, tt. 452-453.)
Trong khi cô đơn, lại bị Phạm Khắc Hòe xúi giục và hù dọa, vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị ngày 25-8-1945, và làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945, với sự hiện diện của đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.
Theo hồi ký của Trần Huy Liệu, sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp nhảy dù xuống Huế, liền hỏi ngay đến Bảo Đại, Phạm Quỳnh và những người cộng tác với Pháp trước đó. Việt Minh bắt được toán người Pháp nầy và “xử lý thích đáng” Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh. (Nguyên văn lời của Trần Huy Liệu). Theo lối chơi chữ của Trần Huy Liệu, “xử lý thích đáng” có nghĩa là thủ tiêu hai ông Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh.
Nhiều người cho rằng việc người Pháp muốn kiếm cách liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại và Phạm Quỳnh (vì lý do gì không được rõ) vô tình đã làm cho VM lo ngại, sợ rằng một khi người Pháp trở lui, Pháp sẽ nhờ Phạm Quỳnh và những người đã từng làm việc với Pháp như Ngô Đình Khôi giúp Pháp lật ngược thế cờ, đưa cựu hoàng trở lại cầm quyền.
Do đó VM vội vàng “mời” cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945, ra Hà Nội làm cố vấn chính phủ, để cách ly cựu hoàng với cố đô, chiếc nôi của nhà Nguyễn, đồng thời cách ly cựu hoàng với những cận thần cũ. Vì vậy VM giết ngay các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi ngày 6-9 để trừ hậu hoạn. Trong khi đó, nếu người Pháp trở lui Huế, người Pháp cũng không hợp tác với Trần Trọng Kim, vì ông Kim và nội các của ông bị gán cho là thân Nhật.

Thứ hai 
Khi cướp chính quyền, VM đã chủ ý giết một số người trong đó có Phạm Quỳnh. Việt Minh chủ ý giết Phạm Quỳnh vì:
1. Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân chủ lập hiến tại nước ta, và cho rằng cộng sản là “nạn dịch” gây bất ổn xã hội. (Phạm Quỳnh, “Ce que sera l’Annam dans cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?], Essais franco-annamites (1929-1932), Huế: Nxb. Bùi Huy Tín, 1937, tr. 500.) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quốc học trong khi Việt Minh muốn phổ biến chủ nghĩa cộng sản.
2. Ở trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu cho giới trí thức làm văn hóa, theo chủ nghĩa dân tộc, lập trường quốc gia, bất bạo động, dấn thân hoạt động chính trị. Việt Minh giết Phạm Quỳnh để đe dọa, uy hiếp và khủng bố tinh thần giới trí thức hoạt động văn hóa trên toàn quốc. Đây là lối mà người xưa gọi là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ” (giết một người, mười ngàn người sợ).
3. Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là người được Pháp ủng hộ và rất có uy tín trên chính trường Pháp. Với đường lối ôn hòa, ông còn có thể được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy giờ do Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp nhận hơn là đường lối cực đoan theo Liên Xô của Hồ Chí Minh.
4. Hồ Chí Minh muốn chụp lấy ngay thời cơ tạo ra do khoảng trống chính trị sau tối hậu thư Potsdam vào cuối tháng 7-1945, nên chủ trương tiêu diệt tất cả những người nào có khả năng tranh quyền với Hồ Chí Minh, để cho ở trong cũng như ngoài nước thấy rằng chỉ có một mình Hồ Chí Minh mới xứng đáng lãnh đạo đất nước. Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ Lại, đứng đầu triều đình Huế. Đặc biệt những điều ông viết về tương lai thế giới mà ông đưa ra từ 1930 trong bài “Ce que sera l‘Annam dans cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?] đều đã diễn ra đúng theo ông tiên liệu, như mối đe dọa của Nhật Bản, nạn dịch cộng sản, xung đột Thái Bình Dương, đại hỏa hoạn ở châu Âu [thế chiến 2]. Nhờ thế mà uy tín Phạm Quỳnh lên rất cao.
Phạm Quỳnh có uy tín và tư thế lớn đối với dư luận trong và ngoài nước, là một trong những người có thể trở thành đối thủ đáng ngại của Hồ Chí Minh, nên Hồ Chí Minh quyết tiêu diệt Phạm Quỳnh để tránh trở ngại về sau.
5. Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi cuốn quần chúng, Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là nhà yêu nước, chứ không phải là đảng viên cộng sản, và Hồ Chí Minh ra đi để tìm đường cứu nước, đồng thời Hồ Chí Minh tự giấu thật kín chuyện xin vào học trường Thuộc Địa Paris mà bị loại. Một chuyện nữa cũng thuộc loại “thâm cung bí sử” của Hồ Chí Minh là việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris vào đầu năm 1922. (Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale” [Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa], tạp chí Revue Française d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105) Hội Tam Điểm là một hội có chủ trương chính trị đối lập với đảng Cộng Sản và là kẻ thù của đảng Cộng Sản.
Cũng trong năm 1922, theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp. Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”, và không nêu tên những người ông đã gặp trong nhật ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.]
Như thế, Phạm Quỳnh là một trong những người biết rõ tung tích Hồ Chí Minh ở Paris, biết rõ Hồ Chí Minh đã gia nhập hội Tam Điểm Pháp, và đặc biệt Phạm Quỳnh còn sống cho đến 1945 (Những người khác như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh đều đã từ trần). Phạm Quỳnh là một nho sĩ chính trực nên ông không tiết lộ cho vua Bảo Đại biết điều nầy, do đó nhà vua mới bị Phạm Khắc Hòe dẫn dụ về nhân vật Hồ Chí Minh. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tt. 184-185). Phải chăng vì là người đã lỡ “biết quá nhiều” về Hồ Chí Minh mà Phạm Quỳnh bị Hồ Chí Minh ám hại?

Trần Trọng Kim – Hồ Chí Minh
Do những lẽ trên, nếu không có những người Pháp nhảy dù xuống Huế như tác giả David G. Marr viết hay Trần Huy Liệu kể, cộng sản cũng vẫn giết Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều là hai nhà văn hóa, và chính trị nổi tiếng trên toàn quốc. Trần Trọng Kim viết khảo cứu có tính cách hoàn toàn chuyên môn, chứ không có chủ trương chính trị lâu dài; nội các Trần Trọng Kim gồm những chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng cơ sở căn bản trong giai đoạn chuyển tiếp từ chính quyền Pháp qua chính quyền Việt. Trần Trọng Kim ít biết về những hoạt động của Hồ Chí Minh lúc còn ở Paris.
Ngược lại, Phạm Quỳnh trước tác với một ý hướng chính trị rõ ràng: xây dựng một nền văn hóa dân tộc, bảo tồn quốc túy, nâng cao trình độ văn hóa của dân chúng bằng cách phổ biến văn hóa Âu tây, dịch thuật những tư tưởng dân quyền của Montesquieu, Voltaire, Rousseau. Phạm Quỳnh tham gia triều đình Huế cũng nhắm đến một chủ đích rõ ràng: tranh đấu ôn hòa, nhưng cương quyết yêu cầu Pháp trả lại chủ quyền cho triều đình, và xây dựng một hiến pháp làm luật lệ căn bản của quốc gia.
Ảnh hưởng văn hóa và chính trị của Phạm Quỳnh khá rộng rãi trên các tầng lớp quần chúng, nhất là giới trí thức trung lưu, từ lớp trí thức Nho học đến cả lớp trí thức và thanh niên tân học. Tạp chí Nam Phong được các lớp người ưu tú ở các địa phương lúc bấy giờ trên toàn quốc xem như loại sách báo giáo khoa chỉ đường. Đó là điều mà cộng sản chẳng những không thể chấp nhận và cũng không thể dung thứ, vì cộng sản muốn nắm độc quyền lãnh đạo chính trị, độc quyền yêu nước, độc quyền chân lý.
Xin hãy chú ý thêm ngày Phạm Quỳnh bị sát hại. Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bị nhóm VM địa phương Huế giết liền khi họ nổi dậy. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30-8-1945 với sự chứng kiến của đại diện chính phủ Việt Minh từ Hà Nội đến là Trần Huy Liệu (bộ trưởng bộ Tuyên truyền), Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (bộ trưởng không bộ nào tức quốc vụ khanh). Phạm Quỳnh bị giam giữ một thời gian, rồi mới bị giết ngày 6-9-1945, nghĩa là lúc đó đã có mặt của đại diện trung ương của VM và của đảng CSĐD.
Khi đã có sự hiện diện của đại diện trung ương, các cán bộ VM địa phương chắc chắn không dám tự tiện ra tay, mà chắc chắn phải có ý kiến của trung ương. Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được việc nầy. Như vậy phải chăng chính nhóm Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà Nội vào Huế để giết Phạm Quỳnh? Và lệnh đó từ đâu, nếu không phải là từ Hồ Chí Minh?
Sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Dưới đây là lời kể của bà Thức: “…Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi ra đi!… Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về… Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký viết tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu gia đình).
Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945. Hồ Chí Minh cướp chính quyền ngày 2-9-1945, ra lệnh “mời” Bảo Đại ra Hà Nội, và Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945. Như thế có nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Việt Nam, đã cướp được chính quyền, đã nghĩ đến cựu triều đình Huế, đến việc đưa Bảo Đại ra Hà Nội, vậy chắc chắn Hồ Chí Minh không thể quên hay không biết chuyện Phạm Quỳnh. Lối lý luận của Hồ Chí Minh là cách chối tội thông thường cổ điển của VM:
“Mất mùa là tại thiên tai,
Được mùa là tại thiên tài đảng ta”
Giết xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc hủy diệt luôn hình ảnh sáng chói của nhà văn hóa Phạm Quỳnh, tức giết Phạm Quỳnh lần thứ hai. Việc nầy thì không thể nói là Hồ Chí Minh không biết gì cả. Đảng Cộng Sản quy chụp cho Phạm Quỳnh tội “phản quốc, làm tay sai cho Pháp”. Gần 40 năm sau, trong Từ điển Văn Học, gồm 2 tập, mỗi tập trên 600 trang, gồm nhiều người viết, do Uỷ ban Khoa học Xã hội xuất bản tại Hà Nội năm 1984, vẫn không có mục “Phạm Quỳnh”. Khi viết về các nhóm văn hóa, sách nầy không thể loại nhóm Nam Phong vì nhóm Nam Phong có khá nhiều tác giả nổi tiếng.
Nói đến nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả Nguyễn Phương Chi, trong ban biên tập từ điển, vẫn còn gọi Phạm Quỳnh là “bồi bút, phản động”. Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế biên tập, mục “Phạm Quỳnh”, trang 758-759, hai tác giả nầy viết: “Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió vì gắn bó mật thiết với các quan thầy thực dân… Ngày 23-8-1945, Phạm bị các lực lượng yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử bắn ở l. [làng] Hiền Sĩ, t. [tỉnh] Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi.”
Các tác giả cộng sản thường đưa ra chiêu bài yêu nước và dân tộc để quy chụp những người không theo khuynh hướng của cộng sản là phản động, phản quốc, trong khi chính vì Hồ Chí Minh khăng khăng đi theo cộng sản Liên Xô mà Việt Nam không được các nước Đồng Minh thừa nhận sau năm 1945. Cũng chính vì đảng Cộng Sản chủ trương ý thức hệ cộng sản mà gây ra mâu thuẫn quốc cộng, phá hoại tình đoàn kết dân tộc, là một trong những nguyên nhân chính đưa đến chiến tranh Việt Nam từ 1946 đến 1975, và hậu quả còn kéo dài mãi cho đến ngày nay.
Sau năm 1954, rồi 1975, chính đảng Cộng sản Việt Nam đã nhập cảng và áp dụng một cách máy móc chính sách văn hóa Mác, Mao và kinh tế chỉ huy rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng, đã làm cho Bắc Việt rồi cả Việt Nam suy kiệt về mọi mặt cho đến ngày nay mà chưa tìm ra lối thoát.
Nếu nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp để mưu cầu chủ quyền cho Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của quốc gia là làm tay sai cho ngoại bang, còn Hồ Chí Minh và đảng cộng sản theo Nga Hoa, bán đứng quyền lợi đất nước, thì không phải là tay sai ngoại bang? Nếu nói rằng Phạm Quỳnh hợp tác công khai với Pháp, viết bài trình thuật rõ ràng các hoạt động của ông là phản quốc, trong khi Hồ Chí Minh làm gián điệp cho Đệ tam Quốc tế Cộng sản, cầu viện Trung Quốc và Liên Xô là không phản quốc?
Nếu nói rằng Phạm Quỳnh viết bài quảng bá học thuật Âu tây, đề cao tư tưởng dân quyền của Voltaire, Montesquieu, Rousseau là không có tinh thần dân tộc, còn cộng sản phổ biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất là chủ nghĩa Stalin thì gọi là gì? Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine là bồi bút, còn Tố Hữu làm thơ gọi Stalin là ông nội, “thương cha thương mẹ thương chồng / thương mình thương một thương ông thương mười”, thì không bồi bút?
Nói cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người học trò bình thường của Voltaire, Montesquieu hoặc Rousseau thì cũng đáng mừng cho dân tộc Việt Nam, vì tư tưởng của các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi đường cho nhân dân toàn thế giới xây dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp trị.
Trong khi đó Hồ Chí Minh là “một người học trò trung thành của Các Mác và V. I. Lê-nin” (Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng trung ươngChủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr. 160), và nhất là người học trò xuất sắc của Stalin, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng đó là hiểm họa độc tài đen tối khốc liệt nhất từ trước đến nay trong lịch sử Việt Nam.
Dầu sao, việc tuyên truyền của cộng sản một thời gây nhiễu xạ hình ảnh của Phạm Quỳnh và ảnh hưởng không ít đến dư luận dân chúng, làm nhiều người, kể cả vài kẻ tự mệnh danh là trí thức tiến bộ, hiểu sai về Phạm Quỳnh, và hiểu sai luôn về một số nhân vật chính trị theo khuynh hướng quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh đã từng nói: “Về phần tôi, tôi đã chọn con đường của tôi. Tôi là một người ở buổi giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được cảm thông…”. (Thư ngày 30-12-1933 của Phạm Quỳnh gởi Louis Marty, Hành trình nhật ký, Paris: Nxb. Ý Việt, 1997, phần “Dẫn nhập”, không đề trang).
Ngày nay, sau những biến động đảo điên của thời cuộc, mọi người nên công tâm tìm hiểu Phạm Quỳnh và nhìn lại sự nghiệp của ông. Trước ngã ba đường vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học, Tây học, và tân học, Phạm Quỳnh chọn con đường tân học, cải tiến và hoàn chỉnh văn học Quốc ngữ để làm phương tiện xây dựng quốc học, vừa bảo vệ quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp thêm bằng cách du nhập những tinh hoa văn hóa nước ngoài.
Chủ trương hòa nhập văn hóa (acculturation) của Phạm Quỳnh xét cho cùng rất quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu chỉ mải mê tranh đấu chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa dân tộc dựa trên quốc hồn, quốc học và quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì trệ trong sự nô lệ tinh thần. Những đóng góp của ông trong việc phát triển nền văn chương Quốc ngữ thật lớn lao. Những vấn đề văn chương, triết lý tổng hợp đông tây ông đã viết, những ý kiến do ông đưa ra trong các bài báo, kể cả những ý kiến ông tranh luận về truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn còn có giá trị. Giấc mơ của Phạm Quỳnh về quốc học, quốc hồn lại càng cần được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh thần cho mọi người Việt Nam ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước. Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn của Việt Nam thời hiện đại.
Về chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu luận bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng Pháp để tranh đấu thực hiện lý tưởng chính trị của ông. Nhiều người thường đồng nghĩa nền quân chủ với phong kiến hoặc thực dân, nên cho rằng quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh là thủ cựu. Cần phải chú ý là Phạm Quỳnh chủ trương bất bạo động. Ông chọn thể chế quân chủ lập hiến với hy vọng thúc đẩy Việt Nam chuyển biến một cách ôn hòa trong trật tự.
Nhìn ra nước ngoài, hiện nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì nền quân chủ lập hiến, nhưng vẫn là những nước hết sức dân chủ như Anh Quốc, Nhật Bản, Thụy Điển, Bỉ… Ở trong nước, xét trên chiều dài của lịch sử, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ năm 1884 đến năm 1945, tuy các vua nhà Nguyễn bị người Pháp khống chế, nhưng vua vẫn là biểu tượng cao cả của đất nước, nên các cuộc nổi dậy kháng Pháp từ Bắc vào Nam đều quy hướng về một mối, đó là triều đình ở kinh đô Huế. Trái lại từ năm 1945 trở đi, khi VM cộng sản cướp chính quyền, người Việt Nam bị chia rẽ trầm trọng thành nhiều phe nhóm khác nhau, theo những quan điểm khác nhau. Do đó, Phạm Quỳnh có phần hữu lý khi ông chủ trương cải cách ôn hòa, và chọn quân chủ lập hiến theo đại nghị chế thay thế cho nền quân chủ chuyên chế.
Ngày nay, cục diện chính trị Việt Nam đã thay đổi hẳn, quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh không còn phù hợp, nhưng không thể vì thế mà phủ nhận tinh thần ái quốc, lòng can đảm và sự tận tình của ông trên con đường phụng sự quê hương. Phạm Quỳnh đã âm thầm tranh đấu bất bạo động để đòi hỏi chủ quyền cho đất nước. Ông đã hết lòng hoạt động vì nước và đã hy sinh vì lý tưởng của mình. Đó là điều thật đáng trân quý nơi Phạm Quỳnh, nhà trí thức dấn thân hoạt động chính trị.
Một điều đáng ghi nhận cuối cùng trong cách thức hành xử của Phạm Quỳnh. Ông theo đuổi một lý tưởng chính trị trường kỳ và bất bạo động, nên ông luôn luôn cố gắng làm những gì có lợi cho đất nước và đồng bào, đồng thời tránh không làm bất cứ việc gì có hại cho quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh sống lương thiện, không tham ô nhũng lạm, và cũng không hề gây tội ác giết hại đồng bào. Thái độ nầy là điều mà rất ít nhà hoạt động chính trị của mọi khuynh hướng thực hiện được, và là một điểm son sáng chói phân biệt Phạm Quỳnh với những người ra hợp tác với Pháp để trục lợi cầu vinh.
Đây là điều cần phải được tách bạch. Trong việc hợp tác với Pháp, có hai hạng người: hạng thứ nhất là những kẻ hợp tác để mưu cầu danh lợi riêng tư, lợi dụng quyền thế, hống hách bóc lột đồng bào; hạng thứ hai ra tham chính, làm việc với Pháp, không dựa vào quyền thế để hiếp đáp dân chúng, mà dùng quyền thế để cứu giúp đồng bào, và vẫn giữ được khí tiết riêng của mình như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Trương Vĩnh Ký, và biết bao nhiêu người vô danh khác.
Phải tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ ràng như thế mới hiểu được tâm trạng cùng sự can đảm của những nhà trí thức, trong hoàn cảnh éo le của đất nước, dấn thân hoạt động chính trị, phụng sự dân tộc, nhất thời đã bị hiểu lầm sau những cơn lốc tranh chấp chính trị kéo dài trên quê hương yêu dấu, trong đó Phạm Quỳnh là trường hợp điển hình nhất.

Trần Gia Phụng 

20/1/14

Cái Tết thứ ba: Suy thoái cùng kiệt sức

Phạm Chí Dũng

Cập nhật: 04:38 GMT - thứ hai, 20 tháng 1, 2014
Năm mới 2014. Trong bầu không khí sôi sục khí thế “đổi mới thể chế” từ bản thông điệp đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về một “nhà nước không làm thay cho dân”, thi thể cứng buốt của một nam thanh niên bất chợt được người đời phát hiện trong một ngôi nhà hoang nằm trên đường Ngô Gia Tự, quận Hải Châu tại thủ phủ nghỉ dưỡng miền Trung mang tên Đà Nẵng.
Sát Tết Giáp Ngọ. Cái Tết thứ ba liên tiếp nền kinh tế Việt Nam chìm trong cơn suy thoái kể từ khi nhóm lợi ích ngân hàng được thả cương trục lợi từ năm 2011.
Nhưng từ nhiều năm trước đó, người dân đã phải tự lo cho nhau trước khi được trời cứu.

Ngôi nhà hoang phế

Xác chết trong ngôi nhà hoang quê quán ở Quảng Nam là của một thanh niên hành nghề nhặt ve chai.
Những người dưng nhưng hảo tâm xúm lại giúp mai táng thi hài kẻ xấu số. Kẻ ra đi bất đắc kỳ tử ấy đã không chịu nổi đợt giá lạnh bất thường như một điềm gở vào những ngày cuối năm 2013.
Ngôi nhà hoang trơ tàn, thò ra những khung cửa trống hoác tối đen, với cả một khoảng trời trắng ngợp lộ thiên phía trên, khiến cho mưa gió dột từ nóc xuống bê bết cả cái nền nhà hiếm khi được gọt nhẵn.
Khắp đất nước, đâu đâu người ta cũng có cảm giác không thể sống động và buốt giá hơn về tình trạng hoang phế thân thể cùng tâm lý phế bỏ niềm tin.
Vào mùa đông năm 2013, báo chí đã lên cơn kích động trước tình cảnh những học sinh vùng cao phía Bắc áo quần xơ xác phải bắt chuột để ăn thay cơm. Nhiều cô giáo cũng phải ăn khoai trừ bữa, hệt như thời đói kém những năm 1978 - 1980.
Khẩu hiệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về chuyện không để giáo viên nào phải nghỉ việc đã mau chóng dạt về vùng thinh không hoang lạnh.
Lời chứng cuối cùng cho việc này là hình ảnh hàng loạt giáo viên từ Thanh Hóa đến Mũi Cà Mau phải rời bỏ mái trường thân yêu, còn Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân lại ấm áp trong bộ đồng phục mới ủy viên Bộ Chính trị.

Con tin mãn tính

"Chợ búa những ngày sát Tết vắng tanh, không khác gì những ngày thường lặng gió. "
Người dân Việt Nam luôn có đủ lý do để ủ dột trong một ngôi nhà dột nát toàn diện từ trên xuống dưới. Khi năm mới 2014 được bắt đầu bằng báo cáo thành tích của Chính phủ về “nền kinh tế có nhiều dấu hiệu phục hồi”, đồng loạt 15 tỉnh đã xướng công văn xin gạo cứu đói. Chưa bao giờ kể từ thời mở cửa kinh tế 1990 đến nay, câu chuyện cứu đói lại dân gian đến như thế.
15 cũng là con số các nhà máy thủy điện đã đồng loạt xả lũ lên đầu dân chúng tại các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Đắc Lắc vào nửa cuối năm 2013, mà đã dẫn đến một triết lý đúc kết không thể chí lý hơn “thủy điện xả lũ đúng quy định, chỉ có dân chết không đúng quy trình”.
Hơn năm chục mạng người đã bị hiến dâng trong cơn xả lũ mất nhân tính đó, trong lúc không có bất kỳ một quan chức hoặc một cấp thẩm quyền nào, từ Bộ Công thương đến các nhà máy thủy điện, phải gánh tội trước vành móng ngựa.
Khoảng cách biệt ghê gớm giữa chủ nghĩa thành tích và thực tiễn khác quan vẫn là khoảng tối bao trùm trong khu nhà hoang thể chế. Những địa phương kêu gào cứu đói lại chính là những nơi được tuyên dương thành tích tiên tiến về tăng trưởng GDP và cả về năng suất trồng lúa. Không kể đến những tỉnh “có lý do chính đáng” như Nghệ An, Quảng Bình khi phải trở thành nạn nhân của đợt xả lũ giết sống, ngay Khánh Hòa – một địa danh du lịch nổi tiếng ở miền Trung – cũng đã biến hiện tượng “GDP có chân” trở thành một thực thể di động.
Luôn cao gấp đôi GDP bình quân quốc gia, nhiều địa phương như Khánh Hòa dường như đã khiến ngân sách xóa đói giảm nghèo hỗ trợ cho tỉnh từ năm 1975 đến nay rất tương xứng với hình ảnh “gió vào nhà trống”.
Hiện tình đất nước đang lao xuống vùng đáy?
Không thể nói khác hơn là có quá nhiều cái thùng không đáy đang hiện hữu trong hiện tình đất nước đang lao xuống vùng đáy.
Những cái thùng được kết cấu bởi các nhóm lợi ích ngân hàng, bất động sản, vàng, chứng khoán và tất nhiên phải kể đến những nhóm lợi ích độc quyền chính sách như điện lực, xăng dầu, gas, sữa… Những cái thùng không đáy đó cũng kết dính với một phạm trù khá mới mẻ là “nhóm thân hữu”. Nhưng với người dân thì từ lâu nay đã không còn lạ lẫm: đó chính là các nhóm chính khách móc xích với các nhóm lợi ích để trục lợi sức dân.
Sự trục lợi thâm dày vô cảm và vô tận như thế đã làm nên một hình tượng quá cay độc từ năm 2011. Vào quý cuối của năm đó, những tay phản biện độc lập can đảm nhất trong công luận đất nước đã phải kêu lên “Nhóm lợi ích ngân hàng đang bắt toàn bộ doanh nghiệp, nền kinh tế và người dân làm con tin của nó”.
Bởi Tết năm 2012 đã chứng nghiệm cho chân lý này: ít nhất 55.000 doanh nghiệp phải phá sản và ngừng hoạt động; hàng chục ngàn công nhân không có tiền mua vé tàu về quê. Các đô thị tràn ngập sắc thái sầu muộn… Trong khi đó, giới ngân hàng vẫn ung dung thưởng Tết với mức bình quân lên đến 40-50 triệu đồng cho mỗi nhân viên, còn giới chủ gấp mười lần như thế.
Sát Tết năm sau đó, nền kinh tế lại được báo cáo của Chính phủ và giới chuyên gia cận thần tô hồng về triển vọng “thoát đáy”. Một quan chức tuyên giáo còn nói như chưa bao giờ được nói “Chưa bao giờ người dân Việt Nam ấm no như bây giờ”.
Trong khi đó, tình cảnh đón Tết của công nhân lao động trở nên thê thảm hơn cả Tết năm trước. Bắt đầu xuất hiện cảnh thưởng Tết bằng tất cả những gì tồn kho trong doanh nghiệp như hạt dưa, quần đùi…, và cả gạch cùng tương ớt.
Mãi lực thị trường đã liên tục đi xuống trong những năm qua. Bất chấp báo cáo về “thị trường đang phục hồi sức mua” của Bộ Công thương và Bộ Kế hoạch và đầu tư, các siêu thị lớn nhất vẫn phải cay đắng thừa nhận sức bán của họ đã giảm đi một nửa qua từng năm. Chợ búa những ngày sát Tết vắng tanh, không khác gì những ngày thường lặng gió. Chưa bao giờ hàng đại hạ giá từ 50% đến 80% xuống đường nhiều đến thế.
Vài chuyên gia trong hệ thống nhà nước ước tính tỷ lệ vòng quay vốn xã hội trong năm 2012 đã chỉ còn 0,8 lần so với hơn 2 lần vào thời hoàng kim năm 2007. Còn vào năm 2013, không hiểu do ẩn ý gì mà đã hầu như biến mất con số ước đoán này.
Cùng lúc, giới chuyên gia phản biện độc lập lại cho rằng việc sụt giảm đến 60% của vòng quay vốn xã hội như vậy vẫn còn là một cách nói khiên tốn. Bởi chỉ cần tính sức mua giảm đều 30% qua từng năm kể tử năm 2011, thì sau 3 năm suy thoái, vòng quay vốn xã hội phải giảm đến ít nhất 70%. Tất cả tình cảnh đó là khá tương đương với khung cảnh thời đại suy thoái của nước Mỹ vào những năm 1929-1932.
Còn báo chí, bị nén chặt trong một tâm thế lò xo ép, chỉ dám buột miệng “Dân kiệt sức cả rồi…”.

Ánh mắt vô hồn

Năm 2013 cũng là cao trào chưa hề kết thúc của rất nhiều cái chết vì nghèo khó. Từ Bắc chí Nam, người dân phải chứng kiến không biết bao nhiêu vụ nhảy cầu, uống thuốc trừ sâu, dùng xăng tự quyết… Những cái chết tập thể của ba mẹ con ở tỉnh nọ đã làm rúng động tận tâm can những người còn lương tri sót lại.
Nhưng bỏ mặc mọi khốn khó nhiễu nhương như thế, triết lý có giá trị đương đại nhất vẫn là “phong bì không chứa nổi tiền hối lộ”. Hình ảnh phổ cập khó có thể bi tráng hơn là những chiếc cặp Samsonite đầy ngoại tệ với giá chót một triệu USD – được minh họa tối thiểu bằng khối lượng 5 kg mà ông chủ Vinalines khai đã tuồn cho Thứ trưởng Công an Phạm Quý Ngọ.
Lồng trong bối cảnh hiện hình chủ nghĩa tư bản dã man từ ba thế kỷ trước, xã hội Việt Nam lại đang nổi lên làn sóng phẫn uất ngày càng bất khuất của nhiều tầng lớp nông dân và công nhân. Thu hồi đất vô lối và bất hợp pháp, ô nhiễm môi trường, điều kiện làm việc khắc nghiệt…, chưa kể đến nguy biến suy sụp kinh tế đang khiến giới đảng viên hồi hưu phải nhận thức lại điều được gọi là “kiên định ý thức hệ cộng sản”.
Một trong những bằng chứng rõ rệt nhất cho tình trạng ngân sách có nhiều dấu hiệu cạn kiện là nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội và cả quỹ lương hưu. Chẳng cần theo dự đoán đến năm 2030 mới vỡ, chỉ mới đến giữa tháng Giêng năm 2014, nhiều cơ quan vẫn chưa có tiền để trả cho cán bộ nhân viên. Tại Sài Gòn, một số cán bộ hưu trí đã phải đến tận trụ sở ủy ban nhân dân thành phố để kêu cứu.
Đó cũng là bối cảnh mà lần đầu tiên, những quan chức có trách nhiệm của nhà nước như bộ trưởng kế hoạch đầu tư Bùi Quang Vinh phải thốt lên từ “vỡ nợ”, còn giới chuyên gia nhà nước như các ông Võ Trí Thành, Trần Đình Thiên đã không còn quá ngần ngại khi ám chỉ về tương lai “đổ vỡ” của ngân hàng.
"Ánh mắt vô hồn vô vọng của một em bé ăn xin lang thang trên hè phố Sài Gòn những ngày lạnh lẽo giáp Tết năm 2014 có lẽ cũng đủ để khoát tả toàn diện cái tương lai của “nhà nước kiến tạo phát triển” trong thông điệp đầu năm nay của thủ tướng Việt Nam."
Cũng là lần đầu tiên hệ thống ngân hàng Việt Nam bị trực chỉ nguy biến đổ vỡ, khi trước đó đã chưa từng tồn tại đặc ngữ này trên cửa miệng giới phát ngôn của Đảng và chính quyền.
Cùng với một dự thảo về tình trạng phá sản ngân hàng được nêu ra bởi Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào đầu năm 2014, có lẽ không ai dám chắc là giới ngân hàng sẽ bằng an tuyệt đối vào cuối năm nay, khi ít nhất 500.000 tỷ đồng nợ xấu sẽ hiện hình không phương cứu chữa.
Một cơn động kinh suy thoái kép đang chực chờ. Khi đó, tỷ lệ thất nghiệp có lẽ sẽ không thể kém thua tính trạng 26% và 27% của Tây Ban Nha và Hy Lạp hiện thời.
Thế nhưng điều không thể hiểu nỗi là nhiều số liệu thống kê năm 2013 cũng nằm trong tình trạng không thể suy thoái hơn. Trong khi vào đầu năm 2013, chính Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phải lên tiếng chính thức về chẵn 100.000 doanh nghiệp phải giải thể và phá sản - chiếm gần 20% số doanh nghiệp đăng ký trên cả nước, thì đến cuối năm 2013, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội vẫn kiên định với báo cáo tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc chỉ khoảng 2%.
Trong trường hợp này, khoảng cách giữa dối trá và chân thật đã lên đến hàng chục lần.
Rõ là cái thành tích bất minh như thế của các bộ ngành chức năng đã trực tiếp ngược chiều với lời trần tình “yêu trung thực, ghét giả dối” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi ông mới nhậm chức vào năm 2006.
Ánh mắt vô hồn vô vọng của một em bé ăn xin lang thang trên hè phố Sài Gòn những ngày lạnh lẽo giáp Tết năm 2014 có lẽ cũng đủ để khoát tả toàn diện cái tương lai của “nhà nước kiến tạo phát triển” trong thông điệp đầu năm nay của thủ tướng Việt Nam.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của cây bút tự do Phạm Chí Dũng từ TPHCM.

Miền Bắc có tuyên bố Hoàng Sa là của TQ?

Cập nhật: 09:32 GMT - thứ hai, 20 tháng 1, 2014

Bản đồ có 'Tây Sa, Nam Sa' mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói là của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Năm 1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc có công bố một tài liệu với tên gọi "Chủ quyền không tranh cãi của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa".
Tài liệu này có một tiểu mục với tựa "Sự man trá của chính quyền Việt Nam", trong đó chỉ ra những bằng chứng cho thấy trước năm 1979, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần tuyên bố Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Ngoài công hàm gây tranh cãi của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, tài liệu này còn dẫn nhiều tuyên bố của các quan chức chính phủ miền Bắc, trong đó có của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm:
"Ngày 15/6/1956, trong khi tiếp đại diện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, Lý chí Dân, Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói với ông rằng: "Theo dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc."
Bên cạnh đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng chỉ ra một tuyên bố khác vào năm 1965 của miền Bắc:
"Trong tuyên bố ngày 9/5/1965 về việc chính phủ Mỹ quy định vùng chiến sự cho lực lượng của họ tại Việt Nam, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói ... 'Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đã chỉ định ... một phần của lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong quần đảo Tây Sa của Trung Quốc làm "vùng chiến sự" của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ'."
Cuốn sách "Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" của ông Lưu Văn Lợi do Nhà xuất bản Công an Nhân dân Hà Nội phát hành năm 1995, xác nhận cả hai tuyên bố này:
"Việc nói Tây Sa là của Trung Quốc trong bản tuyên bố của chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong tuyên bố năm 1965 về việc Mỹ quy định khu vực chiến đấu của quân Mỹ hay câu nói của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm về Tây sa là có thật," ông Lợi viết.
Ngoài ra, tài liệu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn kèm theo một tấm bản đò thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam [Dân chủ Cộng hòa] xuất bản năm 1972 trong đó ghi Tây Sa và Nam Sa theo tên Trung Quốc.
Tài liệu này còn nói các bản đồ của miền Bắc trong các năm 1960 và 1974 cũng ghi rõ Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.
Nhân dịp 40 năm hải chiến Hoàng Sa, BBC đã có cuộc phỏng vấn sử gia, đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, về những tài liệu này.

'Nhiều chính thể, một Tổ quốc'

Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi
BBC: Trước năm 1975, quan điểm của miền Bắc về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa là như thế nào, thưa ông?
Sử gia Dương Trung Quốc: Tôi nghĩ rằng tùy vào hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, có những thời kỳ có nhiều lực lượng chính trị khác nhau.
Ngay từ thời kỳ xa xưa, như Trịnh-Nguyễn phân tranh, Việt Nam vẫn là một nước Đại Việt thống nhất.
Hay như sau hiệp định Genève, hai miền Nam Bắc dù có bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17, thì về nguyên lý, nước Việt Nam vẫn là thống nhất, với quy định là 2 năm sau thì tổng tuyển cử.
Tôi nghĩ vào thời điểm năm 74, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã thực thi đúng nhiệm vụ của mình được quốc tế đảm bảo.
"Những quan hệ được xây dựng từ trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp thì có thể tạo ra một điều mà tôi có thể nói thẳng là sự mất cảnh giác."
Tổ quốc Việt Nam thì chỉ có một, còn chính thể thì có thể có nhiều, và đó là trách nhiệm của bất kỳ chính thể nào đối với lãnh thổ của Tổ quốc.
BBC: Ngoài công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Trung Quốc cũng đưa ra nhiều tài liệu để nói miền Bắc đã nhiều lần công nhận Hoàng Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, như tuyên bố của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm năm 1956, tuyên bố năm 1965 về vùng chiến sự của Mỹ, hay các bản đồ mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng trong các năm 60,72,74.
Ông nghĩ gì về những tài liệu này và giá trị pháp lý của chúng?
Sử gia Dương Trung Quốc: Chúng tôi thì chưa được tiếp cận với bản gốc, thế nhưng nếu những điều đó có xảy ra thì cũng không có gì là lạ.
Bởi vì vào thời điểm đó thì chúng ta đều biết rằng Việt Nam đang diễn ra một cuộc chiến tranh, và rõ ràng Trung Quốc đang là đồng minh trực tiếp của miền Bắc Việt Nam.
Thêm vào đó, những quan hệ được xây dựng từ trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp thì có thể tạo ra một điều mà tôi có thể nói thẳng là sự mất cảnh giác. Đó là chỗ mà người Trung Quốc, vốn thâm hiểm, muốn khai thác.
Nhưng nếu nhìn vào chiều dọc lịch sử và tính liên tục của nó thì ta có thể thấy rất nhiều bằng chứng là Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình, từ thời kỳ quân chủ, và trước đó là các chúa Nguyễn.
Chúng ta cũng biết là người Pháp khi biến Việt Nam thành thuộc địa cũng thực thi quyền ngoại giao của mình và khẳng định tất cả.
Quan trọng nhất là đến năm 1974, sự hiện diện của quân đội Việt Nam Cộng hòa trên Hoàng Sa nói riêng và các đảo trên Biển Đông nói chung thì hết sức rõ ràng. Trận chiến năm 1974 cũng rất rõ ràng.
Vào thời điểm đó, theo Hiệp định Genève thì lãnh thổ nào của Việt Nam ở sau vĩ tuyến 17 thì đều thuộc quyền quản lý Việt Nam Cộng hòa.
Đương nhiên người Trung Quốc sẽ tìm mọi chi tiết để chứng minh, nhưng nếu nhìn theo tổng thể lịch sử và cái tính liên tục của nó thì tôi nghĩ rằng những chi tiết không quan trọng.

Bài học lịch sử

Chính quyền trong nước vẫn còn dè dặt trong việc tưởng niệm tử sỹ Hoàng Sa
BBC: Ông cho rằng việc thay đổi quan điểm trong việc vinh danh tử sỹ Hoàng Sa thì có thể giúp gì cho Việt Nam trong việc đòi lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa trong tương lai?
Tôi cho rằng trước hết là cần phải rút ra bài học lịch sử, nhất là trong quan hệ với phương Bắc.
Nếu đọc kỹ lịch sử, chúng ta thấy là khi nào trong nước có mâu thuẫn, không ổn định, không đoàn kết thì mất nước. Họ luôn khai thác điều đó.
Tôi nghĩ rằng để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam, kể cả những vùng Trung Quốc đã chiếm đóng thì việc đầu tiền là người Việt Nam phải biết đoàn kết với nhau, thống nhất về ý chí rằng đó là lãnh thổ của chúng ta.
Còn về thời gian thì chúng ta phải chấp nhận một quá trình mà trong thế giới hiện đại ngày nay, chúng ta không thể không dựa vào những cam kết, những luật quốc tế để giải quyết vấn đề một cách cơ bản, không chỉ đối với quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc mà còn quan hệ giữa Trung Quốc với khu vực có liên quan.

18/1/14

Người miền Trung thất vọng vì ngành y tế thiếu lương tri

Hù dọa bệnh nhân       

Bệnh nhân cần sự ân cần và lòng nhân ái của bác sĩ
Bệnh nhân cần sự ân cần và lòng nhân ái của bác sĩ
RFA
Một nền y tế mà hầu như trên khắp cả nước, đi đâu cũng nghe nhân dân ta thán. Miền Trung không nằm ngoại lệ, đặc biệt, ở các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam và Đà Nẵng, vấn đề lương tri nghề nghiệp, lương tâm của đội ngũ y, bác sĩ nghe ra có vẻ chẳng tốt đẹp hơn những nơi khác, nếu không nói rằng ở một số bệnh viện tư nhân, hiện tượng hù dọa bệnh nhân để tiểu phẫu xãy ra khá cao.
Trao đổi với chúng tôi, ông Đinh, người Điện Bàn, Quảng Nam cho biết là trước đây hai tháng, em trai ông bị chứng khó thở, phải đưa đi bệnh viện, ban đầu, người em cấp cứu ở bệnh viện đa khoa Tam Kỳ, Quảng Nam, được một tuần, ông xin chuyển viện, ra nhập một bệnh viện tư nhân khá nổi tiếng ở Đà Nẵng với hy vọng bệnh viện này có thể chữa chạy tốt hơn và có trách nhiệm hơn. Thế nhưng mọi chuyện lại hoàn toàn khác.
Vừa nhập viện chưa đầy nửa giờ đồng hồ, các bác sĩ cho khám tổng quát, liền sau đó không cho bệnh nhân tự đi lại, bắt phải ngồi xe lăn, thậm chí có lúc phải nằm băng ca để khiêng. Cả gia đình ông Đinh tá hỏa vì lo lắng nhiều thứ, sợ rằng em trai mình sắp chết nên bệnh viện mới làm thế. Sau đó, một bác sĩ gọi riêng ông lên văn phòng khoa, báo cho ông biết rằng em trai ông đang bị tắt nghẽn động mạch vành, muốn sống thì phải can thiệp, có hai cách can thiệp, hoặc là thông động mạch, hoặc là phẫu thuật. Nếu thông động mạch thì hết mười tám triệu đồng, còn phẫu thuật thì mất một trăm tám mươi triệu đồng.
Ông Đinh lấy làm lạ vì mức chênh lệch quá cao của hai phương pháp điều trị, hỏi thêm thì không được giải thích gì ngoài cách nói ví von khá văn chương của bác sĩ rằng tim mạch con người cũng giống như các kênh mương trong đồng ruộng, lâu ngày, rêu đất, các chất dơ dáy, kể cả rác bám vào thành mương làm cho nó bị nghẹt, nếu không thông, sẽ chết. Nghe đến đây, ông Đinh càng lấy làm lạ vì thái độ và cách giải thích có chút gì đó không thành thật.
Phòng khám đa khoa An Phước, đây là một phòng khám được xây dựng bởi nhóm bác sĩ hảo tâm ở thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam
Phòng khám đa khoa An Phước, đây là một phòng khám được xây dựng bởi nhóm bác sĩ hảo tâm ở thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam
Sau đó, ông chuyển người em ra bệnh viện trung ương Huế, ở đây, trước khi đi, ông còn bị các bác sĩ ở bệnh viện tư Đà nẵng hù thêm rằng bệnh viện trung ương Huế giống như cái chợ Đông Ba, nhặng xị và tào lao. Nhưng ông Đinh vẫn quyết tâm đưa em trai ra Huế. Cuối cùng, tại bệnh viện trung ương Huế, sau khi khám và theo dõi, các bác sĩ ở đây kết luận người em trai ông Đinh chỉ bị suy kiệt do làm việc quá căng thẳng, không có gì để phẫu thuật và tuyệt đối không được can thiệp bằng phẫu thuật. Nằm ở Huế nửa tháng, người em ông Đinh xuất viện, khỏe hẳn ra và chỉ tốn chưa đầy mười triệu đồng.
Ông Đinh chua chát nói thêm: “ ‘Chừ cái ni tôi nói theo nông dân thôi! Anh làm đám ruộng, anh có đường mương anh đổ vô, nhưng giờ đường mương sụp rồi, nghẹt mất rồi, nước đâu chảy cho được đám ruộng này, lúa anh chết có phải anh chết không . Chừ tôi phải nâng cái mương lên, tôi phải can thiệp, tôi kiểm tra, cái mương này nghẹt ở chỗ nào, tôi nâng nó lên để nước chảy vào.’  Khốn nạn rứa đó!
Một, hai tôi nói đi là đi, rồi tôi quyết định đi, một hai, bác không kí tôi cũng đi. Cho hay không cho tôi cũng đi. Nhưng mà tôi xin cái đơn, khám ở bệnh viên tư chẳng qua tôi xin vậy. Xin trên tinh thần chứ có phải lấy bảo hiểm gì đâu. Bác có cho đi hay không, có ký hay không ký gì cũng đi.”
Sau khi tìm hiểu, tiếp xúc với nhiều bệnh nhân ở các bệnh viện khu vực miền Trung, đặc biệt là các bệnh viên tư nhân ở Quảng Ngãi, Quảng Nam và Đà Nẵng, chúng tôi đều có chung đáp án: Bệnh nhân bức xúc, cảm thấy mình bị vắt kiệt túi, bị xúc phạm và những người nghèo khổ cảm thấy bị khinh khi trong lúc điều trị bệnh. Rất hiếm thấy bác sĩ có y đức và lương tâm nghề nghiệp. Nhà nhà thi nhau mở bệnh viện, người người thi nhau mở phòng khám, mục đích lớn nhất của họ là làm giàu, moi tiền của bệnh nhân càng nhiều càng tốt.
Và gần đây, hiện tượng các bác sĩ gièm nhau, bác sĩ ở bệnh viện này gièm bác sĩ bệnh viện khác, làm mất uy tín của nhau để tranh giành thị phần ngày càng nặng nề, phổ biến. Điều này làm cho những vị bác sĩ thực sự còn lương tâm, y đức cảm thấy bị xúc phạm, và những phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tư có ý hướng từ thiện trở thành đối tượng nhắm đến để gièm pha, hạ uy tín, làm cho bệnh nhân lo sợ, không dám ghé đến. Phòng khám đa khoa An Phước, ở thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam là một trường hợp điển hình cho hiện tượng này.
Theo dõi siêu âm cho bệnh nhân. RFA
Theo dõi siêu âm cho bệnh nhân. RFA
Những tấm lòng hiếm hoi
Cũng xin nói thêm về phòng khám đa khoa An Phước, đây là một phòng khám được xây dựng bởi nhóm bác sĩ hảo tâm và nó hình thành với hai mục đích, khám chữa bệnh cho bệnh nhân nghèo và tạo quĩ giúp đỡ người khó khăn, tàn tật. Bác sĩ Thảo, giám đốc bệnh viện là một sứ giả của hội trợ giúp người nghèo khổ, bệnh tật có tên Người Tôi Cưu Mang. Xuất phát từ những lần chứng kiến các bệnh nhân nghèo không có tiền trả viện phí, không có bảo hiểm, cũng không có cơm để ăn. Nhiều lần, ông và vợ tình nguyện nấu tặng bữa cơm tình thương ở các bệnh viện tuyến huyện.
Nhưng, theo như ông nói thì sức người có hạng, mà người nghèo thì nhiều quá, ông và vợ chỉ biết xót thương mà đành bó tay. Suy nghĩ mãi, ông vận động một số bạn bè cùng góp tay để tặng bữa cơm. Thế rồi lâu dài cũng không ổn, vì kinh phí và thời gian luôn là vấn đề nhức nhối. Ông quyết định kêu gọi bạn bè, đồng nghiệp góp vốn mở phòng khám đa khoa An Phước để duy trì mục đích từ thiện của mình.
Để xác minh nguồn tin về lòng từ thiện của phòng khám An Phước, nhiều lần chúng tôi đóng giả bệnh nhân đến khám và thăm dò. Ấn tượng của phòng khám An Phước để lại trong chúng tôi khá sâu, nhân viên lịch sự, nhẹ nhàng và ân cần, các bác sĩ, y tá cũng thế. Đặc biệt, giá phiếu khám chỉ tốn 15 ngàn đồng, nếu tái khám thì khỏi tốn tiền mua phiếu khám lần hai. Những y tá hướng dẫn cũng tận tụy và nhiệt tình. Bác sĩ khám xong, cho toa thuốc, khi mua thuốc, chúng tôi một lần nữa ngỡ ngàng vì giá thành ở đây. Có thể nói lượng thuốc ở phòng khám An Phước chiếm 70% thuốc nhập ngoại. Nhưng hiếm có trường hợp phải bỏ ra trên 100 ngàn đồng để mua thuốc điều trị.
Một bệnh nhân tên Hùng, nói với chúng tôi rằng mỗi khi đưa con đi khám ở An Phước, tiền thuê taxi cho đoạn đường 5km từ nhà ông đến nơi khi nào cũng đắt gấp đôi tiền khám và mua thuốc điều trị. Và thi thoảng, ông mua một nải chuối hay một ít trái ây mang tặng các bác sĩ ở đây. Bởi vì đã có nhiều lần tiếp xúc, thăm dò nên chúng tôi hoàn toàn đồng cảm với ông Hùng. Và, cứ mỗi cuối tuần, phòng khám đa khoa An Phước lại có kế hoạch nấu bữa cơm tình thương mang đến một bệnh viện huyện nào đó. Ở đó, những bệnh nhân nghèo, thiếu ăn đang chờ đợi họ.
Trong một xã hội mà hầu như mọi ngành nghề, mọi khía cạnh đều manh nha sự man trá. Ngay cả bà Bộ trường Y tế cũng có những phát biểu hết sức vô cảm, ở xã hội mà bác sĩ nhẫn tâm đến độ có thể ném xác nạn nhân xuống sông, các đồng nghiệp thả sức gièm pha nhau và thả sức moi tiền của dân nghèo… Sự hiện hữu của phòng khám đa khoa An Phước cùng với đội ngũ y, bác sĩ giàu lòng trắc ẩn và từ tâm nghiễm nhiên trở thành điểm sáng để người dân có quyền hy vọng rằng vẫn còn rất nhiều bác sĩ, rất nhiều bệnh viện luôn đặt trách nhiệm và y đức lên hàng đầu, lấy sinh mạng và sức khỏe con người làm lý lẽ hành nghề và tồn tại. Mong rằng sẽ còn nhiều nơi như thế!

“Lương y như từ mẫu” ở VN giờ ra sao? 

benh-vien-bach-mai-305.jpg
Bệnh Viện Bạch Mai, Hà Nội, ảnh minh họa chụp trước đây.
Courtesy yduoc365
Trong mấy ngày nay, vụ một bác sĩ thuộc Bệnh Viện Bạch Mai, Hà Nội, làm chết bệnh nhân tại thẩm mỹ viện tư của ông ta rồi vứt xác nạn nhân xuống sông khiến chấn động dư luận. Vấn đề cần được nêu lên là y đức, và cả đạo đức toàn xã hội Việt Nam, hiện ra sao?

Kiểu“độc nhất vô nhị”

Hôm 19 tháng 10 vừa rồi, BS Nguyễn Mạnh Tường, chủ nhân thẩm mỹ viện Cát Tường ở Hà Nội, giải phẩu thẩm mỹ làm chết bệnh nhân Lê Thị Thanh Huyền rồi vứt xác nạn nhân xuống sông Hồng để phi tang.
Giữa lúc công luận phản ứng mạnh mẽ, có ý kiến tin rằng vụ này chỉ là trường hợp ngoại lệ, kiểu“độc nhất vô nhị” mà thôi.
Tại Việt Nam bây giờ, ngay ngành y – ngành được ví như “Người Mẹ Hiền” – giờ cũng đã trở nên tàn nhẫn và độc ác với ngay đồng loại của mình.
-MS Nguyễn Trung Tôn
Nhưng vấn đề là trong thời gian gần đây, người dân trong nước ngày càng báo động về nhiều sai phạm, tiêu cực trong ngành y – diễn ra trong chiều hướng vô cảm, tắc trách, kỳ thị, thậm chí xem thường nhân mạng. Nhiều bệnh nhân than phiền y đức trong nước hiện giờ xuống cấp trầm trọng, y giới, ngoài “sai sót về chuyên môn”, thường không thể hiện tinh thần “lương y như từ mẫu”, đó là chưa kể “văn hóa phong bì” nhan nhản trong các bệnh viện vì nếu thân nhân nuôi bệnh thiếu sự “bôi trơn” đó, bệnh nhân gặp nhiều khó khăn, nhất là họ lo cho tính mạng người thân đang trong tình trạng “chỉ mành treo chuông”.
Từ Hà Nội, cụ Lê Hiền Đức, từng được thế giới trao giải thưởng “Liêm chính” và vinh danh chống tham nhũng, báo động:
bac_si_vut_xac_benh_nhan_250.jpg
BS Nguyễn Mạnh Tường, chủ nhân thẩm mỹ viện Cát Tường ở Hà Nội bị công an bắt hôm 22 tháng 10. Courtesy 24h.
“Tôi vô cùng bức xúc. Bây giờ đạo đức, y đức  xuống cấp quá rồi. Tinh thần trách nhiệm, đạo đức của ngành y nó thế nào rồi? Cái ngành y đang xuống cấp một cách kinh khủng. Và phải nói lỗi một phần lớn là ở Bộ trưởng Bộ Y tế, chẳng có trình độ, không có giáo dục y đức gì cả.”
Từ Thanh Hóa, MS Nguyễn Trung Tôn lưu ý rằng lâu nay, câu “Lương y như từ mẫu” gắn liền với ngành y. Nhưng trên thực tế tại Việt Nam, trong những năm gần đây, nhiều sự kiện liên quan đến vấn đề y đức gần như liên tục xảy ra:
“Đặc biệt chỉ trong vòng tháng 10 này thôi, cả sản phụ chết ở Thanh Hóa. Rồi tới chuyện ông BS Nguyễn Mạnh Tường dù không có giấy phép hành nghề thẩm mỹ nhưng vẫn hành nghề lén lút – mà thực ra là giữa thanh thiên bạch nhật. Nhưng nếu không có sự kiện bệnh nhân của ông ta chết và bị vứt xác xuống sông và sự kiện này không được khui ra thì phòng thẩm mỹ của ông ta vẫn còn tồn tại. Và vụ này là dấu hiệu cho thấy y đức ở Việt Nam ngày nay đã xuống cấp đến mức báo động – chẳng còn có thể gọi là y đức được nữa! Tại Việt Nam bây giờ, ngay ngành y – ngành được ví như “Người Mẹ Hiền” – giờ cũng đã trở nên tàn nhẫn và độc ác với ngay đồng loại của mình.

Tất cả được tính bằng tiền

Cụ Lê Hiền Đức nhân tiện đi vào chi tiết hơn, nhắc đến trường hợp 3 cháu nhỏ ở Quảng Trị tim vaccine, nhưng “rút mũi kim ra chết luôn”; còn ở bệnh viện Hoài Đức thì “nhân bản”: khi bệnh viện lấy máu để xét nghiệm cho bệnh nhân thì không làm xét nghiệm mà lại dùng kết quả xét nghiệm của bệnh nhân khác – “hàng mấy nghìn ca nhân bản như thế”; rồi cũng trong hàng mấy nghìn ca,Viện Mắt Hà Nội đã tráo đổi thủy tinh thể có giá rẻ hơn.
Khi vào phòng cấp cứu, anh bác sĩ nhìn thấy tôi, nói một câu rất lạnh lùng, “Bác ơi, bác đi về đi, thứ Hai đến nhé”.
- Cụ Lê Hiền Đức
Vẫn theo cụ Lê Hiền Đức, dịch nhầy dùng để thay thủy tinh thể, đáng lẽ ra của Mỹ và một người được dùng 2 ống dịch nhầy, thì lại sử dụng một ống dịch nhầy của Ấn Độ cho 4 bệnh nhân cùng chung một lọ và chung kim tiêm, không thử HIV, không thử viêm gan B. Rồi mẹ con sản phủ ở Thanh Hóa như vừa nói đã tới ngày sinh nở, cần thiết mổ, nhưng bệnh nhân kêu cứu thì không được đáp ứng, không được mổ kịp thời. Hậu quả là hai mẹ con này chết vì bác sĩ, y tá không có tinh thần trách nhiệm. Và cách đây mấy ngày xảy ra vụ bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường ném xác bệnh nhân xuống dòng sông như vừa nói. Cụ Lê Hiền Đức nhân tiện kể lại chính trường hợp của cụ:
“Tôi đã 82 tuổi rồi. Hôm ấy đang đêm thứ Bảy, tôi bị đau khắp người, không cựa nỗi nữa. Con tôi bế lên ô tô rồi bế xuống đặt tôi vào xe lăn và đưa vào phòng cấp cứu. Mà trước khi đến bệnh viện tôi đã nhờ gọi điện cho giám đốc bệnh viện, hỏi rồi. Nhưng khi vào phòng cấp cứu, anh bác sĩ nhìn thấy tôi, nói một câu rất lạnh lùng, “Bác ơi, bác đi về đi, thứ Hai đến nhé”!
Theo MS Nguyễn Trung Tôn, dù dưới khẩu hiệu “Lương y như từ mẫu”, nhưng ở Việt Nam hiện giờ, thực chất, tất cả phải được tính bằng tiền; đồng tiền đang hạ thấp lương tâm con người Việt Nam, đặc biệt trong ngành y. Mà không phải đạo đức trong ngành y đang là vấn đề, mà đạo đức nói chung trong toàn xã hội cũng trên đà sa sút đáng ngại. MS Nguyễn Trung Tôn nhận xét:
“Tình trạng đạo đức ở Việt Nam hiện nay không riêng gì ở ngành y, mà trong toàn xã hội, hiện ở mức đáng báo động! Có hai nguyên nhân có thể khiến tình trạng đạo đức trong xã hội Việt Nam xuống cấp như vậy, đó là nó bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nền giáo dục Việt Nam, và bởi nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nửa vời khiến người ta bước đi những “bước chân khập khiễng”. Nó đẩy con người ta đến tham vọng và đánh mất đi lương tâm đạo đức, đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của đảng CS, các cuộc phát động “học tập và làm theo tấm gương của Hồ Chí Minh”. Dưới sự cai trị của đảng CS, người ta có thể làm bất cứ điều gì chỉ vì tiền, vì quyền, vì địa vị, hầu kiếm thật nhiều tiền để cùng một mục đích là xây dựng “thiên đàng XHCN” cho chính đảng của họ mà thôi.”
Nếu ngày xưa, tiên sinh Trần Tế Xương than cho đạo đức xã hội suy đồi, rằng “Nhà kia lỗi đạo, con khinh bố, mụ nọ chanh chua, vợ chửi chồng”, thì xã hội Việt Nam ngày nay, theo nhận xét của TS Nguyễn Xuân Diện, “Những vụ giết người, cướp của ngày càng táo bạo, kẻ thủ ác tuổi đời ngày càng trẻ và cách thức giết người càng ngày càng dã man, độc ác, quyết liệt hơn”.


Trách nhiệm của bà Bộ trưởng và sự lên tiếng của chúng ta

Blogger Mẹ Nấm viết cho RFA

vtv.vn-305.jpg
Người nhà trẻ sơ sinh tử vong sau khi tiêm vacine viêm gan B tại một bệnh viện ở Quảng Trị hôm 21/7/2013
Photo courtesy of vtv.vn
Trả lời phóng viên báo chí chiều ngày 24 tháng 7, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến giải thích việc bà không đi thăm hỏi các gia đình có con em xấu số đã thiệt mạng sau khi được tiêm vắc xin ngừa viêm gan B tại huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) như sau:
Lịch trình, chuyến bay... đã được bố trí kín lịch. Do vậy, bà không thể bố trí thời gian đi thăm các gia đình có cháu bé bị tử vong.
“Bộ Y tế cũng đã có đoàn công tác tại Quảng Trị thăm hỏi, chứ tôi không thể trực tiếp đi” (1)
Tôi tự hỏi với trách nhiệm của một người đứng đầu một bộ có sự cố liên quan đến sinh mạng của ba đứa trẻ vô tội kia mà bà Kim Tiến có thể buông những lời vô cảm như trên kia, thì liệu tính phụ nữ, bản năng làm người, làm mẹ có còn tồn tại trong con người bà chút nào không?
Hơn thế nữa, cái ghế bộ trưởng ở Việt Nam hóa ra chỉ là ngồi đợi nghe báo cáo và chứng kiến người khác chịu trách nhiệm cho sự yếu kém năng lực quản lý lẫn lãnh đạo của mình thôi ư?
Giả sử những em bé sơ sinh vô tội kia là con cháu, là người thân của bà Bộ trưởng thì liệu bà có bình thản đi dâng hoa, dâng hương cho các anh hùng liệt sỹ một cách bình thản được hay không?
Hỏi tức là đã trả lời.
Thật lòng mà nói, tôi không thấy phẫn nộ với cách hành xử và những gì bà Tiến trả lời trên báo chí, bởi bà cũng như nhiều vị quan chức lãnh đạo khác ở xứ này. Họ đều có chung một căn bệnh, đó là bệnh vô trách nhiệm – vô cảm. Một người bạn của tôi đã nói, một khi còn tin cậy, còn hy vọng thì người dân mới lên tiếng trách móc và cảm thấy bất bình. Tôi hoàn toàn đồng ý như vậy. Riêng tôi, tôi không có cả niềm tin và sự hy vọng vào lương tâm và năng lực lãnh đạo của những người như Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến.
Câu hỏi đặt ra là khi ta mất lòng tin vào năng lực lãnh đạo của một người quản lý thì ta có quyền làm gì?
Yêu cầu Quốc hội bãi nhiệm?
Yêu cầu Thủ tướng cách chức?
Có người đã nói với tôi rằng, bà Tiến này xuống sẽ lại có một ông hay một bà Tiến ngu dốt và vô cảm khác lên thay, tất cả lại đi theo một đường tròn như từ trước đến giờ.
Tôi không nghĩ như vậy.
Sự lên tiếng của chúng ta không bao giờ lãng phí, bởi thực tế đã chứng minh chính phản ứng của dư luận gần đây đã khiến nhiều bộ, ngành phải xem xét lại các quyết định và nhân lực của mình.
Bạn còn nhớ không, Bộ Công an đã phải dừng việc ghi tên cha mẹ vào chứng minh nhân dân, phải cân nhắc lại quyết định xử phạt xe chính chủ… Cá nhân Bộ trưởng Bộ GTVT Đào Đình Bình (nhiệm kỳ 7/2002 - 6/2006) đã phải rời ghế vì sự vô trách nhiệm của mình trước sự cố lật tàu E1 tại Lăng Cô (Huế), bởi trong lúc nhiều người đang hoảng hốt vì tai nạn giao thông đường sắt đã cướp đi sinh mạng của nhiều người dân thì ông Bình lại đang ung dung nghỉ mát trong một khu tắm bùn hạng VIP tại Suối khoáng nóng Tháp Bà, Nha Trang. Mới gần đây nhất là Bộ Giáo dục Đào tạo đã phải ra Thông tư bãi bỏ quy định ưu tiên cộng điểm khi thi vào đại học, cao đẳng đối với các đối tượng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người hoạt động cách mạng trước ngày 1/1/1945 và người hoạt động cách mạng từ ngày 1/1/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 bởi nó thiếu thực tế.
Quay trở lại với việc trẻ em bị chết oan vì tai biến sau tiêm chủng, năm ngoái, 5 trẻ em tại Nghê An chết sau khi được tiêm vắc xin 5 trong 1 Quinvaxem.
Không một lời xin lỗi, không một lời giải thích, sau đó Bộ Y tế quyết định dừng sử dụng loại vắc xin này trong chương trình tiêm chủng quốc gia.(2) Để rồi không lâu sau đó khi có kết quả kiểm định tại một phòng thí nghiệm độc lập ở Vương quốc Anh khẳng định các lô vắc-xin “5 trong 1” Quinvaxem đạt yêu cầu, Bộ Y tế lại vội vàng cho sử dụng lại. (3)
Có bao nhiêu ông bố, bà mẹ thực sự quan tâm đến việc người ta chích loại thuốc gì vào cơ thể bé bỏng của những thiên thần của mình tại các trạm xá?
Và thực sự nếu có thắc mắc thì chúng ta phải làm gì?
Hãy nghe ông PGS.TS Đỗ Sỹ Hiển, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn về Sức khỏe bao biện cho việc sử dụng vắc xin cũ như sau:
Còn nói về vắc-xin Quinvaxem cần phải biết rằng, ngay cả bản thân nước sản xuất ra nó là Hàn Quốc, họ cũng không sử dụng loại vắc-xin này. Họ chỉ bán cho các nước khác, còn tại nước của họ, người dân sử dụng vắc-xin vô bào. Nước chúng ta nghèo nên chúng ta phải chịu, phải chấp nhận.”(4)
Bạn có chấp nhận sự bao biện trên đây không?
Một bác sĩ có uy tín đã chia sẻ trên blog của mình như sau:
Đất nước đáng thương xót của chúng ta còn nghèo. Nhưng không phải vì nghèo mà con cái chúng ta phải chết vì những lọ vaccine giết người kia. Con cái chúng ta có quyền được chích ngừa bằng những vaccine tốt nhất, an toàn nhất như mọi trẻ em khác.
Và chúng có quyền được sống, sau khi được tiêm chủng!
” (5)
Tôi tin là bạn cũng sẽ đồng ý như tôi vậy, bởi không thể lấy lý do là “nước chúng ta nghèo” làm đáp số cho sự ra đi oan uổng của những đứa trẻ vô tội.
Thôi thì ta tạm chấp nhận rằng vắc xin hỗn hợp 5 trong 1 Quinvaxem từ Hàn Quốc là lỗi thời, là do nước ta thiếu điều kiện, vậy còn lô vắc xin viêm gan B liên quan đến nguyên nhân tử vong của 3 trẻ sơ sinh tại BV huyện Hướng Hóa – Quảng Trị thì sao?
Một chi tiết mà tôi nghĩ ít người chú ý đến đó là lô thuốc này do Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV) vắcxin và sinh phẩm y tế số 1 (Vabiotech) sản xuất.
Công ty vắcxin và sinh phẩm số 1 được thành lập theo Quyết định số 6 50/2000/QĐ-BYT ngày 02/03/2000 của Bộ Y Tế. (6)
Nếu kết luận bốn trẻ sơ sinh vừa tử vong gần đây là do vắc xin, thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?
Bộ Y tế, đứng đầu là Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến? Hay người điều hành Công ty TNHH MTV Vabiotech kia? Hay chỉ là các cô y tá, ê kíp bảo quản vắc xin?
Bạn thân mến, sự lên tiếng của tất cả chúng ta không bao giờ là vô nghĩa, bởi không ai biết trước chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai.
Bạn có con, em (hoặc cháu) nhỏ không?
Nếu có, hãy vì con, em (cháu) mình mà làm một điều gì đó, thực sự đã đến lúc chính sách chăm sóc sức khỏe cộng đồng (nhất là những chính sách phục vụ quyền lợi của trẻ em) phải được cải thiện.