27/2/14

Gò Cỏ May - Đã thấy quan tài, mà chưa đổ lệ?

Gò Cỏ May - Đã thấy quan tài, mà chưa đổ lệ?

Đã thấy quan tài, mà chưa đổ lệ?

gocomay 23.10.13
Website quảng cáo của thẩm mỹ viện Cát Tường.
Website quảng cáo của thẩm mỹ viện Cát Tường.
Không biết ngày thứ Bảy – 19/10 (ngày rằm) vừa rồi là ngày gì mà đã xẩy ra tới hai sự kiện gây rung động giới truyền thông trong nước như vậy!
Hàng nghìn người dan mang quan tài sản phụ tử vong diễu phố, gây náo loạn.
Hàng nghìn người mang quan tài sản phụ tử vong diễu phố, gây náo loạn.
- Vụ thứ nhất ở Thiệu Hóa – Thanh Hoá, vào trưa ngày 19/10 sau cái chết của một sản phụ được cho là do bác sĩ tắc trách. Hàng nghìn người dân đã bao vây xe chở quan tài chuyên dụng của công an, khi chiếc xe này vừa ra khỏi cổng bệnh viện. Bà con đã vây kín chiếc xe, yêu cầu tài xế chở quan tài diễu qua trụ sở ủy ban huyện, công an huyện Thiệu Hóa ở thị trấn Vạn Hà. Nhiều người thân vì quá bức xúc đã liên tục đánh trống, rải vàng mã, thả vòng hoa đồng thời la ó phản ứng dữ dội. Lúc xe đi qua nhà riêng của bác sĩ Lê Văn Định, nhiều người lao vào trong nhà tìm kiếm đòi “xử” ông quan mặc blouse trắng này. Không tìm thấy ai, người dân đã dùng gạch đập phá làm hư hại nhiều đồ đạc. Bác sĩ Định cùng vợ con đã phải bỏ trốn để tránh cơn giận dữ của người dân. (Xem ở đây và ở đây)
Người thân của chị Huyền ngóng chờ tin tìm kiếm xác nạn nhân trôi sông...  - Ảnh: Quang Thế
Người thân của chị Huyền ngóng chờ tin tìm kiếm xác nạn nhân trôi sông… – Ảnh: Quang Thế
- Vụ thứ hai, cũng vào trưa ngày 19/10, chị Lê Thị Thanh Huyền ở 36 phố Hàng Thiếc, Q.Hoàn Kiếm, TP Hà Nội đã tới thẩm mỹ viện Cát Tường trên đường Giải Phóng do bác sỹ Nguyễn Mạnh Tường (một bác sỹ giỏi của BV Bạch Mai) làm chủ để làm phẫu thuật hút mỡ bụng và nâng ngực. Ca phẫu thuật thất bại, khiến chị Huyền tử vong. Ngay đêm hôm đó bác sỹ Tường đã dùng xe ô tô riêng, cùng người bảo vệ (tên là Đào quốc Khánh) mang xác nạn nhân lên cầu Thanh Trì và ném xuống sông Hồng phi tang. (Xem ở đây)
Cả hai vụ việc đều hết sức nghiêm trọng.
Vụ ở Thanh Hóa, một sản phụ được xác định “đẻ thường” theo kết luận của y bác sĩ sau khi thăm khám. Mà cơn đau đẻ diễn ra dữ dội bất thường suốt cả đêm của bệnh nhân vẫn không được kíp trực đêm của bệnh viện đoái hoài… dẫn đến tử vong cả mẹ lẫn con.
Vụ ở Hà Nội, còn nghiêm trọng hơn. Có thể nói làm rung động cả y giới hoàn vũ. Thầy thuốc đã làm chết bệnh nhân. Lại ném xác nạn nhân để phi tang. Hành xử như thế có khác gì đám hải tặc máu lạnh chứ đâu còn là “lương y như từ mẫu”?
Nhận thấy mức độ trầm trọng của sự việc, theo thông tin từ Bộ Thuốc, do bà Thượng Tiến (Bộ trưởng Nguyễn Kim Tiến) đi họp ở nước ngoài, bà Phó Thượng Thư Nguyễn Thị Xuyên “sẽ ký văn bản thay mặt ngành y tế chia buồn với gia đình nạn nhân, xin lỗi toàn thể nhân dân,…”. (Nguồn tin từ TTO).
Thôi thì người chết cũng đã chết rồi. Nhưng “gia đình nạn nhân” và “toàn thể nhân dân” sẽ sắp nhận được một lời xin lỗi từ các quan lớn Bộ Thuốc, cũng cả mừng rồi.
Câu dân gian xưa nói ”mất bò mới lo làm chuồng”. Không biết Bộ Thuốc của đất nước có chỉ số lạc quan gần nhất thế giới như xứ lừa mình có rút ra được bài học kinh nghiệm nào không? Chẳng hạn trong việc đào tạo ra được một đội ngũ cán bộ ”vừa hồng vừa chuyên” rất “vững về chuyên môn” lại có thân nhân gia đình và tâm lý ổn định đang có uy tín tại một bệnh viện lớn như bác sỹ Nguyễn Mạnh Tường mà y đức thì như vậy thì ai dám tin mà trao gửi tính mạng cho các ”sát thủ” ấy nữa?
Ông Nguyễn Mạnh Tường bị dẫn giải đến nơi vứt xác nạn nhân- Ảnh: Quang Thế (TTO)
Ông Nguyễn Mạnh Tường bị dẫn giải đến nơi vứt xác nạn nhân- Ảnh: Quang Thế (TTO)
Nhìn cảnh bác sỹ Nguyễn Mạnh Tường bị dẫn giải đến nơi vứt xác nạn nhân do phóng viên Quang Thế (báo Tuổi Trẻ) “chộp” được thật ấn tượng. Nghi phạm tội giết người bị rìu đi bởi hai chiến sỹ an ninh trẻ mà uy nghi có khi còn hơn cả anh Trỗi ra pháp trường hồi thập niên 60 thế kỷ trước ấy chứ?
Nghi can Đào Quang Khánh tại cơ quan điều tra
Nghi can Đào Quang Khánh tại cơ quan điều tra
Còn tòng phạm với thầy thuốc Tường, anh bảo vệ trẻ - Đào Quang Khánh (17 tuổi), khi được hỏi: “Anh nghĩ gì khi thực hiện việc đó cùng bác sĩ Tường?”. Khuôn mặt Khánh không biểu lộ vẻ sợ hãi trước hành vi phạm tội. Khánh đáp: “Thấy bình thường. Hôm sau em lại đến Thẩm mỹ viện làm việc như mọi khi cho đến khi bị bắt… “Ngay sau khi vứt xác nạn nhân xuống sông, bác sỹ Tường nói với em, sẽ cho em qua giai đoạn thử việc, vào làm chính thức với mức lương 8 triệu đồng/ tháng. Đặc biệt, em không được nói vụ việc này với ai”, Khánh kể. (Trích từ VOV).
Theo tính toán của vị thầy thuốc có máu lạnh Nguyễn Mạnh Tường, sau khi đã tiêu hủy mọi chứng cứ của nạn nhân, kể cả việc đưa chiếc xe máy nạn nhân để lại sang bên kia sông dựng hiện trường giả, sự việc sẽ êm xuôi. Không ngờ, một tờ hóa còn sót lại trong quần áo nạn nhân đã khiến vụ việc đổ bể hoàn toàn. Nếu không, ai dám chắc những kẻ thủ ác như Tường và Khánh lâm nạn? Các vị “thầy thuốc như mẹ hiền” và các nhân viên phục vụ đắc lực cho hệ thống y tế trên khắp đất nước này đã, đang và sẽ còn bao nhiêu kẻ mang máu lạnh như thế nữa? Ai sẽ trả nhời cho câu hỏi này, nếu không phải chính những người trong cuộc?
Sinh lão bệnh tử là lẽ thường “sinh diệt” của tạo hóa. Nhưng sẽ chẳng “lẽ thường” chút nào khi con bệnh vào viện muốn làm “thượng đế” phải kính cẩn lễ phép từ anh bảo vệ cho tới chị hộ lý. Muốn mỗi mũi tiêm khỏi đau, phải “bôi trơn” bằng những chiếc phong bì. Việc to phong bì to, việc nhỏ phong bì nhỏ. Thiếu (hay chậm) phong bì tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Trường hợp tử vong cả hai mẹ con của sản phụ ở Thanh Hóa rất có thể nạn nhân chết oan do chưa (hay chậm) được bôi trơn (?).
Riêng trường hợp chị Thanh Huyền ở Hàng Thiếc, bài học rút ra cho những ai “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” (Xem: Không phải thẩm mỹ viện “tử thần” đầu tiên ở Hà Nội - ở đây). Mà vẫn muốn lên “chân kính” nhan sắc của mình bằng sự can thiệp của dao kéo cũng nên biết rằng các thẩm mỹ viện danh tiếng nhất thế giới đương đại cũng không cứu nổi ông hoàng nhạc Pop Michael Jackson giàu độc nhất vô nhị trên hành tinh này. 
Michael Jackson (29.08.1958 - 25.06. 2009)
Michael Jackson (29.08.1958 – 25.06. 2009)
Tình huống trên không phụ thuộc vào chuyện ”bôi trơn” hay ”bôi” mà không “trơn”. Còn tùy thuộc vào cơ địa cụ thể của mỗi người. Cùng làm đẹp bằng giải phẫu thẩm mỹ cả, nhưng có ca thành công, ca thất bại chính là ở yếu tố cơ địa này. Những người có tiền sử về tim mạch hay đang trong giai đoạn phải dùng thuốc điều trị các bệnh mỡ máu và tiểu đường hay các bệnh nội tạng khác… đều thuộc diện “cấm chỉ” (không đủ điều kiện) tiến hành các giải phẫu thẩm mỹ lớn nhỏ. Người thầy thuốc giỏi và có lương tâm là phải chỉ ra cho các “thượng đế” của mình những bất cập rủi ro trước khi bắt tay vào công việc. Tiếc thay, nhiều thầy thuốc do hám giàu đã bị các khoản tiền (đặt cọc) qúa to làm mờ mắt. Thử hỏi, một bác sỹ phẫu thuật giỏi đã có gần 20 năm kinh nghiệm hành nghề ở bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện thuộc hàng đầu của ngành y tế xứ mình mà khách hàng vừa tới đăng ký và đặt cọc tiền (50 triệu) hôm trước, hôm sau đã tiến hành giải phẫu ngay. Với cách làm ẩu tả kiểu đó, nếu thành công, cũng chỉ là ăn may thôi.
Ở các xứ “giẫy chết”, sao chúng coi trọng sinh mạng con người thế. Như cách đây mấy tuần, bà xã tôi đi nhổ chiếc răng sâu ở hàm trên. Trước tiên, nha sỹ tiến hành hàn tạm lỗ rò (để khi ăn) cho đỡ buốt. Tiếp theo cho dõi hàng tuần, lại còn yêu cầu phòng khám bác sỹ gia đình cung cấp đầy đủ các kết qủa thử máu định kỳ (một năm hai lần). Thấy không có gì trở ngại, họ mới quyết định nhổ bỏ chiếc răng hư. Nơi đó chỉ là một phòng khám nha khoa nhỏ bé ở làng. Nếu ở các bệnh viện (từ tuyến huyện trở lên…) thì những phẫu thuật, dù nhỏ (như mổ ruột dư bị viêm sưng chẳng hạn), các qui trình kiểm tra theo dõi cùng mọi thủ tục pháp lý được tiến hành vô cùng kỹ lưỡng trước khi động dao kéo.
Tạo hóa sinh ra con người lành lặn. Nếu chẳng may gặp thiệt thòi hay bị tai nạn phải can thiệp bắt buộc ngoài ý muốn bằng phẫu thuật, âu cũng là cái số. Đành phải chấp nhận. Còn tự dưng ai đang tâm sắp đặt lại hình hài dung mạo do cha mẹ ta đã sinh ra? Nhất là làm cái việc hệ trọng ấy mà thiếu hiểu biết những nguy cơ đang rình rập nhãn tiền.
Hình ảnh chị Huyền được gia đình đăng tải để tìm kiếm sau khi mất tích.
H.ả. chị Huyền được g.đ. đăng tải để tìm kiếm sau khi mất tích.
Trong hoàn cảnh cụ thể của mình, chị Thanh Huyền ở Hà Nội, sẵn sàng bỏ ra hàng chục hàng trăm triệu để làm đẹp, để tăng thêm tự tin nhằm phục vụ tốt cho công ăn việc làm. Cũng như làm cho đời sống cá nhân được hạnh phúc hơn. Thiết nghĩ đó là việc làm chính đáng. Nhưng ai học được chữ ngờ. Khi sắc đẹp chưa được gia tăng một giờ một phút nào… thân xác lại chìm nổi đi đâu về đâu, chưa ai tìm ra? Cái chết của chị Huyền thật thương tâm.
Bài học rút ra qua cái chết bi thương ấy, các nhà quan mặc áo (blouse) trắng ở trên Bộ Thuốc dù có (hay sẽ) xin lỗi thống thiết tới đâu cũng không khoả lấp được nỗi đau của người ở lại. Bởi cái “lỗi hệ thống” mà xứ sở này mắc phải không phải chỉ có riêng ở ngành y. Nó như căn bệnh “tứ chứng nan y” tàn phá đất nước chúng ta từ lâu lắm rồi.
Thôi các nhà kiên định trên thượng thiên (trời) mà không chịu thì đám con ong cái kiến dưới hạ địa (đất) hãy cố mà tự giữ lấy thân. Đã thấy quan tài, mà chưa đổ lệ, thì ai sẽ khóc dùm ta đây ???

26/2/14

Ông Tống Văn Công, nguyên tổng biên tập báo Lao động từ bỏ Đảng CSVN.

Ông Tống Văn Công, nguyên tổng biên tập báo Lao động từ bỏ Đảng CSVN. 

Trong bản tự kiểm điểm ngày 22-2, ở phần “tự nhận một hình thức kỷ luật”, tôi đã viết :

Là một đảng viên hơn 55 năm đứng trong hàng ngũ Đảng, sống thanh bạch, 82 tuổi còn làm việc hợp đồng, lúc nào cũng nghĩ về vận nước và sự suy thoái của Đảng, tôi nghĩ rằng, tôi không phải thuộc số không nhỏ đảng viên thoái hóa chính trị mà chính những người bảo thủ, giáo điều không sáng suốt chấp nhận đổi mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh hùng trong sự nghiệp giải phóng, nay trở thành một Đảng độc đoán, tham nhũng mới đúng là những kẻ suy thoái chính trị. Do đó tôi không thể nhận bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên là suy thoái tư tưởng chính trị.

Tuy vậy, tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin nhường cho Đảng quyền khai trừ mình. Bởi vì làm như vậy, tôi sẽ yên lòng rằng, Đảng khai trừ tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết xin được gia nhập và thề phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó mà mai kia tôi sẽ không còn quá băn khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn quá bức xúc cứ muốn góp ý xây dựng.

Ngày 24 tháng 2 năm 2014, tôi nhận được văn thư của đảng ủy cho rằng tự kiểm điểm của tôi “ chưa đạt yêu cầu”, phải “nghiêm túc viết lại bản tự kiểm điểm và tự nhận hình thức kỷ luật “. Cùng với văn thư trên, có bản gợi ý nêu ra ba trường hợp mà theo Quyết định 47 -QĐ/TW là phải khai trừ: “Có quan điểm ủng hộ hoặc tán thành đa nguyên chính trị, đa đảng; công khai phê phán bác bỏ chủ nghĩa Mác -Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng.”

Tôi hiểu, Ban chỉ đạo muốn bảo rằng: Khuyết điểm của tôi là phải tự nhận hình thức khai trừ ra khỏi Đảng. Không làm như vậy thì tôi gây khó cho tổ chức Đảng. Nhưng làm như vậy thì thật là khó cho tôi. Bởi vì cho đến nay, tôi vẫn tự hào về cái ngày là anh lính vệ quốc đoàn, viết đơn xin vào Đảng để được noi gương các đảng viên trong giờ phút gay go của chiến dịch Cầu Kè năm 1950 ( Trà Vinh) đã hô to “Các đảng viên cộng sản! Xung phong!” Tôi vẫn tự hào ngày được vào Đảng, giơ tay thề hy sinh chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất, dân chủ cho nhân dân. Còn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là gì thì, thú thật không chỉ tôi mà cả các bậc đàn anh cũng chẳng hiểu!

Càng tự hào về lý tưởng cao cả mà mình đã bỏ cả đời để phục vụ, tôi càng day dứt, xấu hổ vì sự thoái hóa, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ những người trong guồng máy lãnh đạo, khiến Đảng cầm quyền phạm nhiều sai lầm, làm mất hết niềm tin của nhân dân , làm khoảng cách tụt hậu của đất nước càng ngày càng xa so với các nước khu vực. Những người lúc nào cũng hô hào kiên trì ý thức hệ lỗi thời, cấm không được tự diễn biến, thực ra, họ chỉ nhằm duy trì quyền lực, khai thác “lợi ích nhóm”, làm giàu cho bản thân, bất chấp thiệt hại của nhân dân lao động và đất nước. Giặc “nội xâm” bao giờ cũng là chỗ dựạ của giặc “ngoại xâm”. Bất kể bọn bành trướng hung hăng ra rả khẳng định toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa, cả “lưỡi bò” biển Đông là của Trung Quốc, lời họ đáp lại chủ yếu vẫn là kiên trì “16 chữ vàng” và “bốn tốt”, vì đây là “đồng chí cùng chung ý thức hệ” , cùng chống lại các thế lực thù địch phương Tây. Truyền thống bất khuất, lòng tự tôn dân tộc bị xúc phạm nghiêm trọng, làm mất dần sự đồng thuận xã hội trước hiểm họa đe dọa sự tồn vong của dân tộc, mà thực ra cũng là sự tồn vong của chính Đảng cộng sản Việt Nam.

Vì những lẽ đó mà thời gian qua, tôi hết sức tự kiềm chế, cố gắng tiếp tục đứng trong hàng ngũ Đảng để cùng với các đảng viên chân chính trực tiếp đấu tranh, góp ý xây dựng Đảng, hi vọng những người lãnh đạo nhận ra sai lầm,vứt bỏ ý thức hệ lạc hậu, tiến tới một Đại hội Đảng đổi mới lần 2 : Đổi mới chính trị, thực hiện nhà nước pháp quyền đúng như các thể chế chính trị hiện đại. Từ đó mà vực dậy niềm tin đang cùng kiệt của nhân dân, tiếp tục sứ mệnh mà đảng viên và nhân dân giao cho.
Hôm nay, con đường ấy đã bị chặn lại. Đau lòng lắm, nhưng phải đành vậy thôi! Từ giờ phút này, từ ngày hôm nay, 25-2-2014, tôi xin nói lời chia tay với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 25 tháng 2 năm 2014
Tống văn Công 

Nguồn: chain emailẢnh của Thuytrang Nguyen.

Hàng loạt cây xanh trong nhà chứa chất độc chết người

Hàng lot cây xanh trong nhà cha cht đc chết người
Sau đây là danh sách một số cây cảnh có độc các loài này đều được trồng phổ biến ở Việt Nam:
1. Trúc đào: Tên khoa học là Nerium oleanderToàn thân Trúc đào đều có chất cực độcOleandrin, Neriin. Người ta có thể bị ngộ độc do chạm vào cây hoặc nuốt phải. Nhẹ thì gây buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy, rối loạn nhịp tim, nặng thì có thể mất kiểm soát cơ thể, hôn mê. Nếu không xử lý kịp thời sẽ dẫn đến tử vong.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/truc%20dao3.jpg
Việc phơi khô hoặc nấu chín cũng không làm mất tính độc của loài thực vật này. Không trồng trúc đào ở cạnh nguồn nước (giếng ăn, bể nước...) vì lá, hoa trúc đào rụng xuống làm nhiễm độc nước. Trên thế giới đã ghi nhận nhiều trường hợp bệnh nhi bị ngộ độc do mủ hoa cây trúc đào.
Hiện nay, trúc đào đang được trồng rất nhiều ở trên các tuyến phố, vườn hoa, nơi công cộng.
2Thơm ổi: Tên khoa học là Lantana spp. Quả có chất độc Lantanin alkaloid Hoặc lantadene A gây bỏng rát đường ruột, giãn cơ, rối loạn tuần hoàn máu và có thể dẫn đến tử vong.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/thom%20oi2.jpg
3. Ngoắt nghẻo: Tên khoa học là Gloriosa superba. Củ và hạt cây có chất kịch độc Colchicine và một số alkaloid khác mà nếu ăn vào sẽ gây tê lưỡi, làm cho cơ thể mất cảm giác, nặng thì hôn mê và nếu không xử lý kịp thời sẽ dẫn đến tử vong.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/ngoat%20ngheo.jpg
4. Cà độc dược, một số loại cà kiểng, hoa Lưu ly: Tên khoa học là Datura metel, thuộc họ càSolanaceae. Tiếp xúc qua da với bất kì vị trí nào trên cây đều có thể gây nổi mẩn đỏ, ngứa, chóng mặt, nhức đầu, thấy ảo giác, hôn mê và có thể gây mù mắt hoặc tử vong.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/ca%20doc%20duoc%202.jpg
Cũng chính nhờ độc chất có trong hoa lá thân cây, mà cà độc dược còn được dùng làm thuốc, nếu dùng với liều khống chế, có thể chữa ho hen, say sóng, trị mụn nhọt.
5. Đỗ Quyên: Tên khoa học là Rhododendron occidentale. Tất cả các bộ phận của cây đều có chất độc Andromedotoxin và Arbutin glucoside. Người bị ngộ độc do loại cây này thường có triệu chứng buồn nôn, chảy nước dãi, ói mửa, uể oải, chóng mặt, khó thở, mất cân bằng. Một lượng 100 đến 225 gram lá Đỗ Quyên đủ để gây ngộ độc nặng cho trẻ em 25 kg.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/do%20quyen%201.JPG
6. Thiên điểu: Tên khoa học là Strelitzia reginae. Hoa và hạt của cây có các chất gây ngộ độc đường ruột. Tiếp xúc hoặc ăn hoa, hạt sẽ khiến buồn nôn, tiêu chảy, chóng mặt.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/thien%20dieu8.jpg
7. Môn kiểng: Tên khoa học là Caladium hortulanum. Tất cả các bộ phận của cây đều có chất độc Calcium oxalate và Asparagine Khi ăn phải sẽ dẫn đến nguy cơ bị bỏng, ngứa rát vùng miệng, niêm mạc ruột.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/mon1.jpg
8. Hoa loa kèn Arum/ Ý lan: Tên khoa học là Zantedeschia aethiopica. Lá và củ cây đều có chất độc đường ruột Calcium oxalate. Khi ăn phải loại thực vật này có thể bị ói mửa, bỏng rát bề mặt niêm mạc.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/zantedeschia%20aethiopica.jpg
9. Xương rồng bát tiên: Tên khoa học là Euphorbia milii splendens. Nhựa cây gây bỏng rát da khi tiếp xúc.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/cuong%20rong%205.jpg
10. Anh Thảo: Tên khoa học là Cyclamen persicum. Củ cây có chất độc Alkaloids gây khó tiêu, tiêu chảy, ói mửa nếu ăn phải.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/anh%20thao1.jpg
11. Chuỗi ngọc: Tên khoa học là Sedum morganianum: Tất cả các bộ phận có chấtGlucosides gây mệt mỏi, khó thở, tiêu chảy nếu ăn phải.
http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/C0/04/chuoi%20ngoc%2033.JPG
12. Môn lá lớn: Tên khoa học là Colocasia spp Tất cả các bộ phận trên cây đều chứa chấtCalcium oxalate Asparagine gây ngứa và bỏng rát cổ họng, tiêu chảy nếu ăn phải.
13. Hồng môn: Tên khoa học là Anthurium spp. Tất cả các bộ phận của cây đều có độc tốCalcium oxalate và Asparagine Việc ăn phải loại thực vật này có thể gây bỏng rát vùng họng, dạ dày và ruột.
14. Dạ lan (tên khoa học là Hyacinth orientalis). Củ Dạ Lan có độc tố Alkaloid gây vọp bẻ, đầy bụng, buồn nôn, tiêu chảy nếu ăn phải.
15. Cẩm tú cầu: Tên khoa học là Hydrangea macrophylla. Lá và củ cây có chất Hydragin-cyanogenic glycoside gây tiêu chảy, ói mửa, thở gấp.
16. Xương rồng kiểng: Tên khoa học là Euphorbia trigona. Nhựa cây Có thể gây bỏng da và mắt nếu tiếp xúc, gây tê cứng lưỡi và miệng, nôn mửa nếu ăn phải.
17. Thủy tiên: Tên khoa học là Narcissus spp. Củ của cây có chất Alkaloids gây chóng mặt, buồn nôn, tiêu chảy, run rẩy toàn thân, hôn mê, có thể dẫn đến tử vong khi ăn phải.
18. Một số loại trầu (Trầu bà, Trầu ông,...): Có tên khoa học là Philodendron spp. Lá và thân cây có chất độc Calcium oxalate gây tiêu chảy, buồn nôn, bỏng rát niêm mạc miệng khi ăn phải.
19. Tulip: Tên khoa học là Tulipa spp. Củ cây có chất Tulipene, ăn phải sẽ gây chóng mặt, buồn nôn.
20. Lục bình: Tên khoa học là Eichhornia crassipes. Tất cả các bộ phận của cây đều có độc gây chứng ăn không tiêu, ói mửa trên chó, mèo và một số vật nuôi khác khi ăn phải.
21. Huệ Lili: Tên khoa học là Hippeastrum puniceum. Củ cây có chất độc Lycorine gây tiêu chảy, buồn nôn, ói mửa khi ăn phải. Nhựa cây có thể gây nôn mửa nếu ăn phải. Tránh tiếp xúc trực tiếp với da vì có thể gây bỏng rát, ngứa...
22. Ngô đồng: Tên khoa học là Jatropha podagrica. Toàn thân cây, đặc biệt là củ và hạt có chứa chất độc Curcin gây chóng mặt và buồn nôn nếu ăn phải.

25/2/14

Ginkgo: một cây hóa thạch sống


Vietsciences- Võ Quang Yến          13/03/2009





Những bài cùng tác giả
Bản thể cây phải chăng một cội
Tự mình chia chẻ làm thành đôi
Hay cây là hai tự tìm chọn
Để mọi người xem như một thôi.
dịch ý thơ Johann Wolfgang von Goethe (1815)

Sam là một động vật sống cách đây 500 triệu năm, trong rất lâu chỉ được biết dưới hình thức hóa thạch, phải đợi đến đầu thế kỷ 17 mới bắt gặp dưới biển. Sự tích cây ginkgo cũng ly kỳ không kém : vết ấn lá cây đã được tìm ra trong đá có 270 triệu năm tuổi, vào kỷ thứ hai, nghĩa là trước cả những khủng long đã sống vào kỷ Jura (213 triệu năm). Có lẽ vào thời ấy có nhiều loài ginkgo, chẳng hạn Ginkgo primigenia, nhưng qua nhiều tai biến địa chất, tiếp theo sự tàn lụi của những khủng long là những động vật phân tán hột cây, chỉ còn hai loài vào kỷ ba (65 triệu năm) : Ginkgo adiantoides và Ginkgo gardneri theo những di tích hóa thạch. Cách đây khoảng 7 triệu năm, ginkgo không còn thấy ở châu Mỹ và 5 triệu năm sau đến lượt châu Âu cũng mất tích nó. Cây chỉ còn mọc ở châu Á, không thay đổi vì lá cây ngày nay không mấy khác là cây hóa thạch kỷ ba. Là cây độc nhất tồn tại từ thuở xa xưa, với những quả xem như là cổ nhất, làm dây liên lạc giữa hiện tại và quá khứ trong số hàng vạn loài cây, ginkgo là một kỳ quan trong ngành thảo mộc. Bên Trung Quốc cây đã được tìm ra trước ở miền bắc nhưng sau cũng bắt gặp mọc hoang trong nhiều dãy núi miền trung và miền nam. Từ thời nhà Hán (206 tCN- 220 sCN), quả hạt cây đã được dùng làm thức ăn và được ghi chép vào sách Thần nông bản thảo kinh nhưng phải đợị đến 1578 mới được Lý Thời Trân (1518-1593) kê vào cuốn Bản thảo cương mục. Một bài thơ đã đề cao nó như những viên ngọc đem tặng cho một người khách cực thân. Nhiều họa sĩ chiếu cố hình thức ngọn lá, còn các thi sĩ thì đua nhau ca ngợi vừa quả vừa lá. Người ta trồng nó bắt đầu từ các triều đại Tống (960-1280), Thanh (1280-1368), nhất là trong các sân chùa, sân miếu, những nơi có nhiều Phật tử và đồ đệ Lão tử tuy không có liên hệ giữa cây và đạo giáo. Bên Nhật Bản thì quả được dùng trong các buổi trà đạo, làm bánh, kẹo và được biết qua sách từ 1492. Vào thời Edo (1600-1867), dân chúng ăn nó như rau, dùng nó trong giấm đóng hộp. Đã từng được tôn vinh là kho tàng quốc gia vì sống lâu đời, không hề bị môi trường ô nhiễm chi phối, lại vẫn còn tồn tại tươi tốt sau quả bom nguyên tử ở Hiroshima, ngày nay cây còn được xem như một cổ thụ thần thoại, hoang đường.
Châu Âu biết được ginkgo nhờ ông bác sĩ kiêm nhà thảo mộc người Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716). Được  Công ty Hòa Lan Ấn Độ Đông phương gửi đi công cán, ông sống ở Nhật Bản từ 1690 đến 1692. Năm 1691, lần đầu tiên ông có dịp xem xét cây và tả nó trong cuốn Amoenitatum Exoticarum năm 1712.  Ông viết : "Cây đạt kích thước một cây hồ đào : thân dài, thẳng, dày, nhiều nhánh ; vỏ trở nên xám, có nhiều  kẽ nứt, lỗ hổng khi về già ; gỗ cây nhẹ, ít dày đặc, ít bền ; lõi mềm, xốp… Cuối xuân, đầu mút nhánh mang cụm hoa đuôi sóc chứa đầy một thứ bột mịn. Trái thịt, dày đặc, qua một cuống dài bằng ngón tay cái mắc vào cây ở chỗ lá mọc, từ hình dáng tròn và dài ngoằn qua kích thước, vỏ ngoài sần sùi một màu vàng lạt, nó giống như một quả mận Damas : vỏ thịt, giàu, trắng, mùi vị chát, dính chặt vào quả hạch trừ phi tách nó ra, để úng thối và khuấy trong nước như thường làm với Areca indica. Quả được gọi là ginnau, giống như quả đào lạt nhưng lớn gấp đôi, có dáng một nhân quả mơ với một vỏ gỗ mỏng, trong, mảnh dẻ ; nhân trắng chứa một quả hạnh độc nhất có vị dịu, dễ tách ra, thịt chắc. Ăn điểm tâm, những quả nầy giúp ích tiêu hóa, giảm hạ bụng trướng do thức ăn gây ra : vì vậy, nó được dọn cho khách vào phần thứ hai của bữa ăn. Những quả hạnh được dùng nhiều cách trong bếp từ khi người ta khám phá ra có thể nấu hay nướng chúng…." Ông đem hột về trồng những cây đầu tiên ở Utrech bên Hòa Lan trong vườn bách thảo. Sau đó cây mới được đem qua Anh (Gordon 1754), Nga (Kew 1762), Pháp (Montpellier 1778). Hoa Kỳ chỉ biết nó từ 1784 trong vườn ông William Hamilton và qua 1900 thì cây được trồng suốt ven đường những đô thị bờ biển miền đông.
Cây ginkgo ở vườn Luxembourg tại Paris
Nguồn gốc tên cây ginkgo là từ danh từ tiếng Tàu yin hsing, ta phiên âm ngân hạnh, người Tây phương dịch ra quả mơ bạc (abricot d'argent). Người Nhật phiên âm gin kyo : có thể ông Kaempfer chép lầm chữ y ra chữ g, hay ở vùng Lempo quê ông miền bắc nước Đức người ta không phân biệt y và g, hay chữ ông ta viết không rõ nên xảy ra sự lầm lẫn biến ginkyo thành ra ginkgo. Những tự điển ngày nay cũng sử dụng nhiều danh từ khác : gingko, ginko, ginkgo, gingo hayginkyo. Người Tàu còn gọi cây là it cho, ya chio (chân vịt), bai guo hay pei kuo. Từ danh từ nầy mà ta có tên cây bạch quả, hay nôm na hơn ta gọi cây lá quạt vì hình dáng lá cây (đừng lầm với cây rẻ quạt Daniella ensifolia DC hay Belamcanda sinensis Lem.). Năm 1771, bác sĩ kiêm nhà vạn vật học Thụy Điển Carl von Linné (1707-1778) xác định tên cây là Ginkgo biloba L., biloba chỉ loài cây vì lá có hai (bi) thùy (lobe). Sau nầy còn có hai tên Salisburia adiantifolia (Smith 1797), Phterophyllus salisburiensis (Nelson 1866) được đề nghị nhưng không mấy ai hưởng ứng.
Một tác giả Loudon kể chuyện năm 1780, một người ở Paris tên là Pétigny qua London, gặp một người làm vườn chịu bán cho ông 5 cây ginkgo với giá tiền 25 ghinê (đồng vàng Anh) ; hôm sau, người làm vườn tiếc của, xin mua lại một cây thôi với cùng giá tiền ; ông Pétigny không chịu, đem 5 cây ginkgo về trồng ở Pháp. Vì 25 ghinê tương đương với 40 êcu (tiền Pháp) nên ngày nay ở Pháp có danh từ "cây 40 êcu" (arbre aux quarante écus) . Tên nầy nay rất được thông dụng và thường được gặp trong các vườn bách thảo trên bảng đặt trước cây. Cũng còn có một tên ít thông dụng hơn là "cây 1000 êcu" vì khi lá vàng rụng xuống gốc cây trông như một thảm êcu. Cây ginkgo có những tính chất giữa những cây dương xỉ và những cây thuộc bộ thông nên rất khó xếp hạng nó. Lúc đầu, người ta muốn xếp nó vào lớp Coniferopsidaea như dương xỉ, nhưng sau thấy cần phải đặt cho nó một lớp riêng biệt Gingopsida hay Ginkgophyta. Ngày nay loài Ginkgo biloba L. chính thức thuộc chi Ginkgo, họ Ginkgoaceae, bộ Ginkgoales.

 Hoa cây cái mùa xuân 
 Hoa cây đực mùa xuân
Ginkgo là một cây biệt chu (dioïque) nghĩa là chùy (cône) phấn hoa (pollen) và tiểu noãn (ovule) nằm trên hai cây đực và cái khác nhau, tuy cũng có ginkgo ngày xưa mang cả hai bộ phận nầy trên một cây. Đằng khác, ginkgo là một loại cây khỏa tử hay hạt trần (gymnosperme) nghĩa là hạt không chứa trong trái như ở những cây bí tử (angiosperme) thường thấy. Trên cây đực, chùy phấn hoa màu vàng mọc từng nhóm 3-6 cái rủ thõng như những đuôi chồn, mỗi cái dài 1-2 cm. Hạt phấn hoa thường mang hai bao phấn hoa gọi là tiểu bào tử nang (microsporange) đằng mút có tinh dịch. Trên cây cái, tiểu noãn gồm có một cái bì bao quanh một bộ mô gọi là noãn tâm (nucellus) chứa đựng bốn đại bào tử (macrospore).
Vào mùa xuân, những hạt phấn hoa rời cây đực được gió đưa lại cây cái thì luồn qua lỗ noãn (micropyle) là một lỗ nhỏ trên bì tiểu noãn, để lọt vào buồng thụ phấn rồi phát triển thành giao tử (gamétophyte). Tế bào giao tử phân chia, cấu thành hai tinh trùng mang tiêm mao rung động (một đặc tính của cây ginkgo và cây tuế cycas) rồi đợi thời kỳ thụ tinh vào mùa thu, từ lỗ noãn bên dưới bơi lên, một tinh trùng phối hợp với noãn tâm. Khi phôi thai bắt đầu phát triển, noãn tâm từ xanh thay màu phồng lớn bằng quả mận vàng và vẫn tiếp tục ngay cả khi quả rơi xuống đất nhờ chất dinh dưỡng có sẵn. Khi ấy, thai là một bì chất dinh dưỡng đùm bọc hai tử diệp (cotylédon); bì nầy gồm có một lớp trong cứng (sclerotesta) và một lớp ngoài vàng cam (sarcotesta) dày khoảng 5 cm. Lớp ngoài nầy  trở dần nên vàng đỏ, mang nhiều vết và cho thoát ra một mùi thúi khi thoái hóa vì chất butanoic acid. Bì cây còn có thể gây nôn mửa, mụn nhọt trên cơ thể ta vì cơm quả chứa đựng urushiol là một chất gây dị ứng khi chạm vào da. Vì những mô bên trong của hạt là giao tử và phôi thai có thể ăn được nên phải dùng găng tay lượm hạch rồi phải rửa nước thật sạch để thải hết bì trước khi dùng. Bì nầy trì hoãn cuộc nảy mầm, may nhờ trong bao tử các thú ăn hạt, bì bị tiêu hủy và hạt hết còn bì khi được bài tiết ra ngoài.
 
Ngoài hạt, có thể phát tán cây ginkgo bằng các phương pháp giâm cành hay tháp cành. Giâm cành là cách chắc chắn nhất để có được một cây theo giới tính mong muốn. Người ta thường hay ghép cành cây đực lên thân cây cái để cuộc thụ tinh được dễ dàng. Rất khó phân biệt được giới tính khi chưa đến mùa cây trỗ hoa. Bên Nhật, trẻ con được nghe giảng khi lá hai thùy lá cây cách nhau rõ rệt như hai ống quần thì đó là cây đực, còn nếu hai thùy gần như gắn liền với nhau như một cái váy thì đó là một cây cái. Lắm người tin mùa xuân lá cây đực mọc sớm hơn lá cây cái và qua mùa thu lá cây đực cũng rơi sớm hơn. Nhận xét nầy nghe nói cũng diễn biến trong một cây ghép vừa đực vừa cái. Cây ginkgo cao 30-40 m nhưng cũng có lúc lên đến 50 m, choáng một khoảng càng rộng khi cây càng già. Cũng vào lúc nầy, cây có thể cho mọc những rễ ngoài trời, rơi xuống dọc thân cây và cành, chạm vào đất, nẩy rễ thành thân, mọc cành. Xem xét cặn kẽ gỗ cây, người ta nhận thấy mộc bộ (xylème) không có mạch dẫn nhựa mà là những sợi mạch (trachéide) gây ra những khoảng gian bào, chứa đựng những đám tinh thể (druse) mà thành phần là calcium oxalat. Muối oxalat nầy còn nhiều hơn trong vỏ cây. Đây là những đặc tính khác của cây ginkgo.
Quả hạch ginkgo có vị dịu, nấu chín ăn tựa như hạt dẻ. Người ta có thể luộc, hấp hay nướng, ăn với cơm, nấm, rau, đậu phụ hay trộn vào cháo. Chỉ chứa đựng 3% chất mỡ, nó cống hiến một nguồn tinh bột, protein, niacin. Ăn nhiều hay ăn lâu ngày, đặc biệt ở con trẻ thiếu vitamin B6, thường có xảy ra sự ngộ độc do chất methoxy pyridoxin gây ra. Bên Nhật Bản, từ thế kỷ 18, mang tên ginnan, quả được đem nướng làm đố nhắm rượu saké. Ngày nay, quả được dùng làm món nhúng nabe ryori hay đem nướng hoặc luột, hấp với trứng trong món chawan mushi. Ngoài chợ có bán quả hạch tươi hay đóng hộp qua những nhãn Pakewo, Pakgor,...
Dầu quả hạt đã được dùng làm nhiên liệu thắp đèn. Người ta cũng cho trộn cơm quả hạt với dầu hay rượu làm xà phòng. Lá cây, trước khi được chiết để nghiên cứu chất thuốc, thường đã được sắc uống, chế trà, dùng trong mỹ phẩm bảo vệ da (20), điều hòa lưu thông máu trong da (28), thuốc rửa tóc, kích thích tóc lại mọc (25). Nó cũng được dùng làm thuốc sát trùng hay làm phân bón.
Một sử dụng nghệ thuật là nhờ hình dáng lạ, màu vàng đẹp mùa thu, lá tự nó là một dải đánh dấu trang vừa rẻ tiền vừa trang nhã ; hơn nữa nhờ tính chất diệt trùng, một phần nào nó bảo vệ sách ! Có lẽ bên Nhật hình dáng lá cây được thấy nhiều nhất, trên áo kimono, khăn quàng, khăn tay cũng như trên bia mộ, huy hiệu các gia đình, trường học, tượng trưng cho thành phố  Tokyo từ năm 1989. Nó được dùng làm mẫu cho những búi tóc các nàng gheisa, các lực sĩ sumo. Trong các viện bảo tàng, khách ngắm được những mảnh đốc kiếm sukashi tsuba bằng kim loại hình lá cây rất thanh nhã, nay thành mẫu những đồ nữ trang lắc lư trên ngực các cô, các bà. Sau cùng gỗ cây, nhẹ, trơn, dẻo, được dùng để chạm trổ, chế tạo bàn và con cờ, những vật dụng trong buổi trà đạo, trên bàn thờ chùa miếu, thùng vận dụng rượu saké, những tủ chống cự lại được sâu mối, gỗ cây cái trong kỹ nghệ làm giấy.
 
Trái và lá mùa thu
Sách vở Tàu từ lâu đã bàn đến những vị thuốc trong cây ginkgo. Quả nhuộm đỏ được sử dụng trong các buổi lễ, dọn ăn trong các đám cưới, giúp tiêu hóa, giải rượu. Thường được dùng thay thế hột sen, quả là một thuốc lại sức trong thời kỳ bổ dưỡng, thuốc yang qui tăng cường năng lực tính phái. Nó là thành phần các liều thuốc chữa những bệnh tim, phổi, ho hen, viêm họng, iả chảy, nóng sốt, điều hòa đường niệu, tương quan giữa thận và bóng đái. Người ta tin nấu chín, nó ổn định tinh dịch, còn tươi thì nó có khả năng tác dụng chống ung thư, độc trùng. Nhờ các chất ginkolic acid (16,22), ginnol, nó có tính chất ức chế hoạt động vi khuẩn, nhiễm trùng do mốc meo gây ra. Quả hạch xay nhỏ đem sắc uống có khả năng kích thích sự tuần hoàn. Lá cây trong thang thuốc bai guo ye được dùng để chữa những chứng hô hấp như hen suyển, viêm phế quản, những chứng thính giác, những bệnh ngoài da, khí hư, ho lao, tuần hoàn, huyết áp, bệnh lậu, bao tử, kiết kỵ, trí nhớ, lo âu. Đem nghiền thành bột, lá cây được đem xông chữa tai, mũi, họng cũng như viêm mũi hay phế quản. Lá cây còn được dùng làm thuốc cao dán. Nó được xem là thuốc trị liệu khớp cắn (occlusion) động mạch ngoại biên gây ra tật đi khập khiễng cách quảng (claudication intermittente)(1,29). Chứa đựng nhiều flavonoid (14), nó có hoạt động phản oxy hóa, thu hồi những gốc tự do ở mức não và võng mạc ở mắt nên có tác dụng ngăn ngừa những rối loạn nguyên do từ tuổi già, rối loạn tuần hoàn óc não, chứng Alzheimer (12) và làm chậm sự lão hóa võng mạc (10). Tác động lên sự lão suy của não, kích thích sự tổng hợp dopamin, nó cải thiện trí nhớ, tâm trạng, cảnh giác, năng lực nhận thức (22). Tăng máu vào não, nó giảm nhẹ sự sa sút trí tuệ thoái hóa (7) tuy có khả năng tăng gia xuất huyết (18). Nó có thể giúp ích cho những người không thoải mái ở núi cao (15) hay bị loạn năng tình dục (27). Đặc biệt cho các bà, nó có khả năng giảm đau sau thời kỳ mãn kinh (17,33).

Bắt đầu từ 1950, người Đức là những người Tây phương đầu tiên muốn khảo cứu sâu rộng tiềm lực y học của ginkgo, đặc biệt phần chiết từ lá, tưởng có phần phong phú hơn phần chiết từ quả hạch. Nói chung, ở Âu châu, những phần chiết được xem có hiệu nghiệm không kém gì những phương thuốc cổ điển để kìm hãm cuộc tiến triển của chứng Alzheimer cũng như để làm giảm bớt những hỗn loạn có liên hệ đến sự suy đồi của trí nhớ và chức năng nhận thức. Chính bác sĩ kiêm nhà thực vật học Willmar Schwabe ở Karlsruhe đầu tiên phân tích những thành phần của phần chiết từ lá, nghiên cứu những hoạt động của chúng và năm 1965 cho sản xuất thuốc Tebonin, nồng độ 10/1 (nghĩa là 1kg chiết từ 10 kg lá). Sau đó, hãng Beaufour ở Pháp và nhiều hảng khác tiếp tay phát triển phần chiết, phần lớn với nồng độ 50/1. Riêng ở Đức, phần chiết EGB 761 (ngoài Tebonin còn mang những tên Kaveri, Tanakan, Rokan, Ginkgold) là một trong 5 vị  được ghi nhiều nhất trong các toa thuốc, theo sau là phần chiết Li 1370, chứa đựng 22-24% glucoflavonoid (quercetin, kaempferol, isohamnetin,…) (32) và 5-7% terpenolacton (những ginkgolid, bilobalid) (14,30)Flavonoid là những chất chống oxy hóa, cũng đã tìm ra được trong rau quả. Còn những ginkgolid là những chất ức chế sự đông tụ máu, có hiệu nghiệm nhất là ginkgolid B (16) trong toa thuốc BN-52021 (9). Được Furakawa chiết xuất năm 1932, phải đợi đến 1966 mới thấy Nakanishi khảo cứu tường tận cấu tạo, ginkgolid được Corey ở Viện Đại học Harvard năm 1988 thành công nhân tạo tổng hợp để nghiên cứu các tính chất chống sự hắt gạt những cơ quan vừa ghép và nhân đó hai năm sau đuợc thưởng giải Nobel. Hội đồng Liên bang Đức về Sức khỏe năm 1988 có kê khai một bảng những hoạt chất của cây ginkgo đuợc Hội đồng thực vật học Hoa Kỳ in.
Nói chung, tính chất cốt yếu của ginkgo là chống oxy hóa (19), đào thải những gốc tự do (3), được dùng trong cuộc trị liệu chứng Alzheimer (12,26). Người ta dùng nó để điều trị bệnh trên nền tảng cơ chế bệnh lý gây ra một cuộc thoái hóa thần kinh (6), những biến chứng sau một cuộc nhồi máu não như những rối loạn nhận thức, trí giác, vận động, trí nhớ, ngôn ngữ (22), những chứng ù tai, chóng mặt (2). Phần chiết với ginkgolid có tính chất bảo vệ thần kinh, hoạt động tiết acetylcholin phụ thuộc cơ chế chứng Alzheimer (5), bảo vệ màng ruột (4), giảm hạ bệnh phù và tổn thương sau chứng tăng thân nhiệt (9). Bên phần chiết với flavonoid thì có tác dụng chống đầu độc tế bào, bảo vệ những tế bào thần kinh, tất nhiên cũng chống bệnh thiếu máu cục bộ não (11). Theo một văn bằng sáng chế Hàn Quốc, phần chiết chứa đựng isoginkgetin thi  giảm hạ nhựa và nicotin trong thuốc hút, đồng thời làm tăng mùi hương (23), lá dùng quấn điếu thay thuốc lá (34). Phần chiết ginkgo không chỉ là chống oxy hóa, nó còn là một thuốc có tiềm năng chống viêm (13), giảm nhẹ bất an tâm thần (8,34), ngăn cản, kềm hãm, giảm hạ thiệt hại động lực thần kinh, mất cân (24). Trái cây ginkgo được dùng để làm dấm chữa các chứng tăng huyết áp, tăng lipid huyết, bệnh đái đường (36). Một văn bằng Nhật Bản  đề nghị một thức uống hạ huyềt áp, điều hòa máu, tăng miễn dịch, phòng ngừa các chứng mạch tim, mạch não (35),  bổ sức gồm có ginkgo và nga truật Curcuma zedoaria (21). Thuốc men thì đã sử dụng nhiều ginkgo. Năm 1997, số tiền bán phần chiết lá ginkgo vượt quá 100 triệu USD. Những lá nầy được sản xuất trong một đồn điền lớn 400 ha (25.000 cây mỗi ha) ở South-Caroline (Hoa Kỳ) của một công ty Pháp-Đức và những đồn điền nhỏ hơn ở Bordeaux (Pháp). Ở Á châu, Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây Trung Quốc đều có trồng ginkgo. Năm 1990, một đồn điền ở tỉnh Shandong và nhất là ở tỉnh Jiangsu đạt đến 3000 ha. Khí hậu hai nơi gần giống nhau nên công ty Pháp-Đức đã kết hợp với người Tàu, đem qua máy móc gặt hái vì đến nay người Tàu hái lá bằng tay : những cây trồng nầy không cao quá con người và cứ 5 năm thì nhổ đi trồng lại.
Nếu cây ginkgo ngày nay đang trở thành một cây thuốc quan trọng trong môn liệu pháp thực vật học, nó có thể ghi trong lịch sử một nạn nhân :
Ông Sakugoro Hirase (1856-1925). Cán sự thực vật học ở  Phân khoa Khoa học, Viện Đại học Hoàng gia Tokyo, ông tự học kỹ thuật nuôi trồng. Từ năm 1894 ông khảo cứu thời gian thụ trái và cấu tạo phôi thai cây ginkgo. Khảo sát noãn tâm qua kính hiển vi, ông thấy được một cấu trúc tỏa tia đặc biệt, hai noãn cơ thực vật (archegonia) trong tiền phôi nhũ (endosperme), sau đó những tiêm mao rung động : ông đã khám phá ra những tinh trùng (1896) cây ginkgo. Sau những báo cáo ở Hội Thực vật học Tokyo, ông cho đăng kết quả trong tờ Tạp chí của Hội (1898) : ở Tokyo, thời kỳ thụ phấn nằm giữa tháng 4 và tháng 5, còn thời kỳ thụ tinh thì giữa tháng 9 và tháng 10. Cùng Seiichino Ikeno (1866-1943), giảng sư đại học, với những khám phá về tinh trùng cây tuế Cycas revoluta, hai ông được tặng thưởng giải Viện Hàn lâm Hoàng gia Tokyo năm 1912. Những khám phá của ông được chính thức thừa nhận, nhưng không phải giảng viên hay giáo sư đại học, thành công của ông có lẽ đã gây khó khăn cho ông trong giới khảo cứu, vì sau đó ông từ chức và đi làm giáo viên. Năm 1925, khi ông từ trần, S. Ikeno trở thành giáo sư ở Viện Đại học Tokyo, có viết bài ca tụng và năm 1967, Gs Y. Ogura cũng có bài nhắc lại sự tích khám phá tinh trùng cây ginkgo. Bên phần S. Hirase, dù sao đã để lại một tấm gương sáng không những cho những nhà thực vật học mà cho cả một thế hệ thanh niên Nhật Bản.

Nghiên cứu và Phát triển 3(62) (2007) 61-69
                                                          

Tham khảo

1- H. Letzel, W. Schoop, Gingko biloba extract EGB761 and pentoxifylline in intermittent claudication. Secondary analysis of the clinical effectiveness, VASA (4) 21 (1992) 403-10
2- C.B. Cano, A.J. Marco, B. Perez del Valle, P.F.J. Pellicer, The effect of Ginkgo biloba on cocheleovestibulary pathology of vascular origin,A..Otorrinolaringologicos Iberoamericanos  (6) 22 (1995) 619-29
3- M. Rosler, W. Retz, J. Thome, P. Riederer, Free radicals in Alzheimer’s dementia : currently available therapeutic strategiesJ. Neu. Trans. Supp.54 (1998) 211-9
4- A. Onen, E. Deveci, S.S. Inaloz, B. Isik, M. Kilinc, Histopathological assessement of the prophylactic effect of Gingko biloba extract on intestinal ischemia-reperfusion injuryActa Gastroenterologica Belgica (4) 62 (1999) 386-9
5- E.K. Perry, A.T. Pickering, W.W. Wang, P.J. Houghton, N.S.L. Perry, Medicinal plants and Alzheimer’s disease : from ethnobotany to phytotherapy,J. Pharmacy and Pharmacology (5) 51 (1999) 527-34
6- S. Kieszek, Trials and perspectives in pharmacotherapy of Alzheimer’s diseasePsychiatria Polska (3) 33 (1999) 331-40
7- A. Gajewski, S.A. Hensch, Ginkgo biloba and memory for a mazePsychological  Rep. (2) 84 (1999) 481-4
8- D. Pratico, N. Delanty, Oxidative injury in diseases of the central nervous system : focus on Alzheimer’s diseaseAmer. J. Med. (7) 109 (2000) 577-85
9- J. Westman, K. Drieu, H.S. Sharma, Antioxidant compounds EGB-761 and BN-52021 attenuate heat shock protein (HSP 72 kD) response, edema and cell changes following hyperthermic brain injury. An experimental study using immunohistochemistry in the rat,  Amino acids (1)19 (2000) 339-50
10- C.P. Juarez, J.C. Muino, H. Guglielmone, R. Sambuelli, J.R. Echenique, M. Hernadez, J.D. Luna, Experimental retinopathy of prematury : angiostatic inhibition by nimodipine, Ginkgo biloba, and dipyridamole, and response to different growth factorsEur. J. Ophthalmology (1) 10 (2000) 51-9
11- M.S. Kobayashi, D. Han, L. Packer, Antioxidants and herbal extracts protect HT-4 neuronal cells against glutamate-induced cytotoxicityFree Rad. Res. (2) 32 (2000) 115-24
12- H. Sienkiewicz-Jarosz, W. Kostowski, Perspectives of therapy of Alzheimer’s diseasePsychiatria Polska, (4) 34 (2000) 623-40
13- A. Wong, S. Dukic-Stefanovic, J. Gasic-Milenkovic, R. Schinzel, H. Wiesinger, P. Riederer, G. Munch, Anti-inflammatory antioxidants attenuate the expression of inducible nitric oxide synthase mediated by advanced glycation endproducts in murine microgliaEur. J. Neurosci. (12) 14 (2001) 1961-7
14- K. Nakanishi, K. Stromgaard, D.R. Saito, Synthesis of gingolide probes for neuromodulatory studiesAbs. Papers 223rd ACS  Nat. Meet. Orlando, FL, US  7-11(2002)
15- J.H. Gertsch, T.B. Seto, J. Mor, J. Onopa, Ginkgo biloba for the prevention of severe acute mountain sickness (AMS)  starting one day before rapid ascentHigh Alt. Med. Biol.  (1) 3 (2002) 29-37
16- F. Drago, M.L. Floriddia, M. Cro, S. Giuffrida, Pharmacokineticks and bioavailability of a Ginkgo biloba extractJ. Ocular Pharmacological Therapeutics (2) 18 (2002) 197-202
17- H. Xu, D.S. Fabricant, C.E. Piersen, J.L. Bolton, J.M. Pezzuto, H. Fong, S. Totura, N.R. Farnsworth, A.I. Constantinou, A preliminary RAPD-PCR analysis of Cimicifuga species and other botanicals used for women’health, Phytomedicine (8) (2002) 757-62
18- B.J. Tesch, Herbs commonly used by women : an evidence-based reviewAmer. J. Obstetrics and Gynecology 188 (5 Suppl) (2003) S44-55
19- O. Lopez, D. Bonnefont-Rousselot, M. Edeas, J. Emerit, F. Bricaire, Could antioxidant supplementation reduce antiretroviral therapy-induced chronic stable hyperlactatemia ? Biomedicine and Pharmacotherapy (3) 57 (2003) 113-6
20- M.M. Cals Grierson, A. Ormerod, Use with extracts vegetaux to improve the function barrier of the skinFr. Demande FR 2831443 (2003)
21- S. Toyota, Health beverage preparation from Curcuma rhizome juiceJpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003111581 (2003) 4 tr.
22- T. Morimasa, Gingko biloba extracts for treatment of complications after brain infarctionJpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003095966 (2003) 7 tr.
23- C.W. Cho, C.Y. Jung, A filtering material for cigarettes composed of ginkgo leaves starch, spices, and a zeolitePCT Int. Appl. WO 0313285 (2003) 22 tr.
24- M.F. Beal, R.J. Ferrante, J. Ribert, Use of gingko biloba extracts to promote neuroprotection and reduce weight  lossPCT Int. Appl. WO 0347511 (2003)
25- K.H. Lee, S.I. Han, G.H. Park, Y.E. Kwon, Evaluation of the herbal extract or the effects of hair-regrowth compared to 3% minoxidil ; elongation of anagen period on C3H miceYakhak Hoechi (1) 47 (2003) 14-9
26- B. Schmitt, T. Bernhardt, H.J. Moeller, I. Heuser, L. Froelich, Combination therapy in Alzheimer’s disease : a rewiev of current evidence, CNS Drugs (13) 18 (2004) 827-44
27. D. Wheatley, Triple-blind, placebo-controlled trial of Ginkgo biloba in sexual dysfunction d ue to antidepressant drugsHum. Psychopharmacology (8) 19 (2004) 545-8
28- E. Boelsma, R.J.A.N. Lamers, H.F.J. Hendriks, J.H.J. van Nesselrooij, L. Roza, Evidence of the regulatory effect of Ginkgo biloba extract on skin blood flow and study of its effects on urinary metabolites in healthy humans, Planta Med.(11) 70 (2004) 1052-7
29. M.H. Pittler, E. Ernst, Complementary therapies for peripheral arterial disease : systematic reviewAtherosclerosis (1) 181 (2005) 1-7
30- K. Nakanishi, Terpene trilactones from Gingko biloba : from ancient times tothe 21 st century, Bioor. Med. Chem. (17) 13 (2005) 4987-5000
31- J. Liang, Cigarette-like product containing leaves of Gingko biloba, Lycium chinense and Mentha haplocalyx, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1559313 (2005) 8 tr.
32- G. Kostalova, D. Tekelova, Sz. Czigle, J. Toth, M. Mrlianova, S. Lalkovic, Comparison of flavonoid contents in mass produced drugs and diatery supplements containing Gingko bilola L., Farm. Obzor (Slovakia) (5) 74 (2005) 119-23
33 S. Elsabagh, D.E. Hartley, S.E. File, Limited cognitive benefits in stage+2 postmenopausal women after 6 weeks of treatment with Ginkgo bilobaJ. Psychophamacology. (2) 19 (2005) 173-81
34- M. Atmaca, E. Tezcan, M. Kuloglu, B. Ustundag, O. Kirtas, The effect of extract of Ginkgo biloba addition to olanzapine on therapeutic effect and and antioxidant enzyme levels in patients with schizophrenia, Psychiatry and Clinical Neurosciences (6) 59 (2005) 652-6
35- X. Zhao, Vinegar manufactured from Gingko biloba and Fagopyrum tataricumFaming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1721521 (2006) 5 tr.
36- L. Weng, Method for producing pure Gingko biloba beverageFaming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1803032 (2006) 4 tr.
 
            ©  http://vietsciences.free.frr  và http://vietsciences.org  Võ Quang Yến

Hai di tích Chàm ở Thừa Thiên Huế


Vietsciences-Võ Quang Yến       14/01/2009    
 Những bài cùng tác giả
Bóng tà dừng ngựa đứng,
Man mác nổi hưng vong.
Ngô Thế Lân
Ai về Việt Nam đi xe hơi từ Nam ra Bắc chắc thế nào trên đường cũng đã dừng chân xem những tháp Chăm đẹp Po Klaung Garai-Đồi Trầu ở Phan Rang, Pô Nagar-Tháp Bà ở Nha Trang, Bánh Ít-Tháp Bạc, Hưng Thạnh-Tháp Đôi ở Qui Nhơn không xa bao lăm quốc lộ 1. Nếu chịu khó đi xa thì có thể  viếng những tháp ít được biết hơn : Pô Dam-Pô Tầm, Pô Sanư-Phú Hài ở Bình Thuận ; Hòa Lai-Tháp Khơ me, Pô Rômê ở Ninh Thuận ; Tháp Nhạn-Con Gái ở Phú Yên ; Cánh Tiên-Đồ Bàn, Bình Lâm-Thị Nại, Dương Long-Tháp Ngà, Phước Lộc-Tháp Vàng, Thốc Lốc-Tháp Cao Mên, Thủ Thiện-Tháp Đồng ở Bình Định,... Ra đến Quảng Nam thì không thể bỏ qua thánh địa Mỹ Sơn, điêu tàn nhưng còn giữ nét hùng vĩ của một thời xưa rực rỡ, cùng những tháp Bằng An độc nhất tám cạnh, Chiên Đàn, Khương Mỹ theo kiểu ba ngôi tháp song hành lập nên một phức thể. Rồi xe vượt đèo Hải Vân tiến vào địa phận Thừa Thiên-Huế.Vùng đất Thuận và Hóa nầy được nhập vào Đại Việt sau lễ cưới công chúa Huyền Trân với vua Chế Mân năm 1306. Trước đó người Chăm đã sống ở đây và để lại nhiều di tích. Từ đầu thế kỷ 20, những người Pháp đầu tiên đã chịu khó đi tìm và kê khai một số hình tượng ngay ở Huế và ở các huyện Phong Điền, Quảng Điền. Bên cạnh những mảnh tượng, mảnh bia bằng đá, những khám thờ bằng gạch,... đáng để ý nhất là những di tích tìm ra ở làng Mỹ Xuyên : một trán cửa mang danh Đản sinh Brahma từ rốn Visnu nằm trên con rắn Ananta bảy đầu (2) tương tự như phù điêu của viện Bào tàng Chăm ở Đà Nẵng hiện được trưng bày ở viện Bảo tàng Á đông Guimet trong khuôn khổ cuộc Triển lãm Điêu khắc Champa ; một tượng gọi là Bà Lồi hình dung một phụ nữ có tám tay mà hai tay dưới nắm một cái vỏ ốc biển shanka và một cái vòng mặt trời cakra (1), có thể là Visnu dưới hình thể Mohini. Những di tích nầy đã được lấy đem vào các viện bảo tàng. Năm nay, nhân chuyến về thăm quê, tôi may mắn được dẫn đi xem một di tích còn được thờ cúng tại chỗ ở chùa Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, nói trạnh từ danh từ Ưu Đàm, có lẽ từ tên hoa Ưu đàm bát la Udumbara mà ra. Tục truyền hoa nấy rất quý, mấy ngàn năm mới xuất hiện một lần, mà Dương Văn An trong Ô Châu Cận Lục đã có nhắc tới : Am Ưu Đàm nở nhiều hoa Bát la. Chùa còn mang tên Chùa Bà Lồi vì bên hông chùa có thờ một tượng bằng sa thạch thếp vàng gọi là Bà Lồi hay Bà Phật Lồi, có liên quan gì với bức tượng đã được phát hiện trước đây một thế kỷ (1) ?
Từ Huế, muốn đi Ưu Điềm, phải lấy quốc lộ số 1 ra hướng bắc. Khoảng bốn mươi cây số, ngang làng Mỹ Chánh, giữa Phò Thạch và Quảng Trị, trước khi gặp chiếc cầu bắc qua sông Ô Lâu làm biên giới cho hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị, lấy một con đuờng nhỏ nhưng tráng nhựa tốt bên tay mặt. Quá làng Mỹ Chánh, xe vượt qua làng Phước Tích trước đây có tiếng về đồ gốm, nay còn được lưu truyền nhờ những nhà rường cổ truyền, rồi cái làng nhỏ Phú Xuân. Xe chạy tiếp dọc theo sông Ô Lâu được đề cao qua những trận đánh trong cuộc chiến vừa qua, băng qua làng Mỹ Xuyên chuyên chạm đồ gỗ và cũng là nơi những năm gần đây đã có khai quật nhiều di tích Chăm. Đối với tôi, Mỹ Xuyên, làng cạnh Mỹ Cang là nơi tôi được sinh ra và sống cả một thời tuổi trẻ nên khi nhìn lại cảnh cũ đường xưa không sao tránh được chút bùi ngùi, thương nhớ... Rồi xe đáp vào địa phận làng Ưu Điềm nhắc tôi lại những năm cách mạng, tuy còn ít tuổi, đầu óc trẻ dại, quần đùi áo cụt, đầu trần chân không, tay mang dao ngắn, cũng hung hăng cùng dân làng đi cướp chính quyền ở huyện lỵ, hân hoan sống những ngày lịch sử hào hùng mà sau nầy kể lại, biết bao bạn bè, nhất là ngoại quốc, thèm thuồng vì mấy ai được trực tiếp dự kiến mà chỉ biết sự kiện qua sách vở, báo chí.

  

Trán cửa được thờ bên cạnh chùa Ưu Đàm, trong một khuôn viên nhỏ, đủ để vài người vào được gần, không biết được dựng lên từ bao giờ. Bao quanh hai bên bệ thờ là một linga và những mãnh cột hình tròn hay tám cạnh. Trên bệ có một bình đựng hoa, một dĩa đựng hoa quả và một lư hương chứng minh vẫn luôn còn sự thờ cúng. Trán cửa nầy đã được Henri Parmentier kê khai từ đầu thế kỷ 20 (2) nhưng đến gần đây không ai biết nó nằm ở đâu (8). Đây là một kiệt tác nghệ thuật và là tác phẩm duy nhất được biết trong nền điêu khắc Champa thể hiện, theo giải thích của nhà khảo cứu Trần Kỳ Phương (6), đề tài lễ rước cưới Siva-Parvati về ngọn núi thiêng Kailasa. Hình chữ U lật ngược, rộng hơn 1m, bề cao ngắn hơn chút ít, trán cửa đang còn tốt, không sứt nẻ, chỉ có ít nhiều rêu phong đóng lên nền sơn xanh đã phai màu. Đứng giữa và choáng phần lớn bề mặt trán cửa là con bò thần trắng Nandin tiêu biểu cho quyền lực thế gian và cho sự đẻ con, đặc biệt không đeo vòng kiền của những vật cưỡi vahana như thường thấy. Trên lưng bò thần, ngồi ngay sau bướu, hai chân hai bên, một chân duỗi thẳng, chân kia co lại là thần sáng tạo Siva chỉ có hai tay ; ngồi sau hai chân một bên là shakti phu nhân, thần Uma, một tên khác của thần Parvati, nét mặt dịu dàng, có vẻ e thẹn của nàng dâu. Siva mặc một cái áo sampot, đội trên đầu một cái mũ che tóc jatamukuta, mang những khuyên tai khá lớn, ba vòng kiền trên cổ, nhiều vòng trên cánh tay và trên mắt cá, tay trái đặt trên đùi, tay mặt cầm một cái vòng có thể là một tràng hạt. Bên phần Uma thì đội mũ tương tự, mặc áosarong kép, có hai thắt lưng, cũng đeo những khuyên tai lớn, một vòng kiền trên cổ, nhiều vòng trên cánh tay và mắt cá, tay trái dài duỗi xuống dưới như ở những vũ nữ Trà Kiệu, tay mặt co lên dưới vú. Trong đạo Bà la môn ở Champa, nhánh thờ Siva luôn có ưu thế thì Siva và Uma chiếm phần chính trán cửa là chuyện dễ hiểu, tuy cũng có những di tích như ở Thủy Triệu thì Visnu lại là nhân vật chính (2).



Quanh Siva và Uma còn có bốn nhân vật. Ở trên, bên trái là thần Brahma, vị chủ hôn (6), chỉ thấy ba mặt, đầu đội mủ mukuta, mang khuyên tai, nhiều vòng trên cổ tay và mắt cá, mặc áo sampot có thắt lưng lớn,hai tay chắp trên ngực, ngồi xếp bàn theo tư thế virasana trên một tòa sen có cành dài như trong hình tượng đản sinh Brahma từ rốn Visnu. Cũng ở trên, bên mặt là thần cứu nhân độ thế Visnu đầu đội mủ mukuta, mang khuyên tai, vòng ngọc, thắt lưng lớn, hai tay trước chắp trước ngực, hai tay sau giơ cao lên, tay trái cầm một cái vỏ ốc biển shanka, tay mặt một vật khó xác định trong số chín biểu hiệu của Ngài. Ngài ngồi trên vai thần điểu Garuda, hai cánh dan rộng, hai tay nắm quanh hai chân Ngài. Ở dưới, bên trái, dưới thần Brahma đứng một đạo sư không râu, miệng rộng như cười, đội mủ mukuta, mặc áo sampot, tay trái buông thỏng, tay mặt cầm một cái trượng dài (risi Bhrigu, người hầu cận Siva ?). Cũng ở dưới, bên mặt, dưới thần Visnu là thần chiến tranh Skanda trẻ tuổi, con của Siva, sức mạnh vô song, đầu đội mủ mukuta khác các mủ kia, cũng có mang khuyên tai, vòng ngọc, cưỡi một con công Paravani có mào lông, tay mặt ôm chim, tay trái cầm một lưỡi tầm sét vajra hay vũ khí bumerang. Tất cả các nhân vật quan trọng của đạo Bà la môn nầy được sắp đặt rất cân đối trên trán cửa. Những đặc điểm nghệ thuật như y phục với kiểu thức sampot có vạt hình tam giác, các kiểu đồ trang sức, thủ pháp tạo hình nhân vật,... là những đặc trưng của giai đoạn muộn hay giai đoạn kéo dài trong phong cách Mỹ Sơn E1, khoảng cuối thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10 (6). Rất có thể trán cửa nầy trang điểm một tháp Chăm trước đây đã được xây ngay tại chỗ chùa Ưu Đàm như chùa Thiên Mụ đã được xây trên nền móng một ngôi chùa cũ và ngôi chùa cũ nầy cũng đã chiếm chỗ một ngôi tháp Chăm. Giả thuyết nầy dựa lên những trán cửa khác nhỏ hơn và bị bẻ gãy cùng những đố dọc cửa tháp hình tròn hay tám cạnh và những mảnh gạch rải rác quanh chùa (2).
*
*     *
Những ai không có phương tiện đi xa, ngay tại Huế cũng xem được một di tích rất đẹp ở viện Bảo tàng Lịch sử tỉnh Thừa Thiên trong Thành nội. Người ta chưa biết rõ niên đại đế chóp (có người gọi là bệ thờ) Văn Trạch Hòa hiện được trưng bày ở đấy (3). Câu hỏi đã được đặt ra là đế chóp ấy có dính dáng gì đến văn khắc Nham Biều được xác đựng vào thế kỷ 10 (4) vì đế chóp đã được tình cờ khám phá năm 1991 ở làng Phong Thu chỉ cách Phong Điền có 28 km, sau đó được chở về Phòng Văn hóa huyện trước khi đưa vào Huế năm 1998. Có một cấu trúc đặc thù đế chóp nầy lại mang một số hình tượng thờ cúng biểu đạt truyền thống balipitha Ấn Độ, nơi dâng cúng thức ăn cho các vị thần dikpala (5)Bên Ấn Độ, thường những bệ thờ loại nầy gồm có nhiều tầng và các thần dikpala được sắp vào ở tầng dưới. Đế chóp Văn Trạch Hòa cũng gồm có hai tầng vuông vắn, các dikpala cũng được sắp ở tầng dưới và ở các góc bệ, ngồi trên hoa sen theo tư thế padmasana, dễ nhận diện qua những biểu hiệu trên mình và vật mình cưỡi vahana. Giữa các bậc, trong những hóc nhỏ được đặt nhiều hình tượng nữ giới không cá biệt loại yaksi hay dvarapalika xen lẫn với những con ngỗng hamsa chống đở thế giới các thần. Ở các góc bệ còn có những tượng người hộ vệ, người cầu kinh. Quan trọng hơn là hình tượng những con sư tử, dựa vào các vahana, không đối xứng, những con vật thường gặp ở các bệ tháp Chăm như ở Mỹ Sơn hay Tháp Mắm. Dù sao, những nhân vật trên đế chóp đã được đem so sánh với những hình tượng các tháp Chăm khác, nhờ đó đã được xác nhận và trái lại những hiện vật ở các tháp Chăm khác như ở Mỹ Sơn cũng đã nhờ những nhân vật ở đây để được biết rõ.
Những nhân vật chính phần dưới đế chóp là tám vị Hộ thế Bát phương thiên astadikpala. Ở mặt đông là thần Sấm sét-Lôi thiên Indra ngồi theo tư thếrajalilasana trên con voi Airavata đang đi, tay mặt cầm kim cương trượng vajra. Đằng sau ngồi đối xứng trên hoa sen hai nhân vật tay chấp trước ngực, một đầu gối gập lên. Ở mặt tây, Thủy thiên Varuna, thần sông biển, tay nắm một cái giây pasha, cũng một đầu gối gập lên, ngồi trên lưng con ngỗng hamsa dan hai cánh như cùng chở cả hai người cầu kinh. Ở mặt nam bệ thờ, cạnh một người cầu kinh là thần Diêm vương Yama, ngồi trên lưng một con trâu, phía trên bị hư nhiều, tay cầm gậy danda các quan tòa. Ở mặt bắc, cách xếp đặt thành hai tầng có phần khác ba mặt kia. Phần trên, ngồi trên hoa sen, giữa hai người cầu kinh, là Thần tài lộc Kuvera, thủ lĩnh bọn quỷ sứ raksasa, cũng có một đầu gối gập lên, tay cầm một cái gì tương tự như một búp sen, đặc biệt không có vahana. Phần dưới, nơi dành cho vahana ở các mặt khác, lại có thêm một Kuvera ngồi trên mặt một con kala dữ tợn giống như ở Đồng Dương, giữa hai nhà tu khổ hạnhrisi đang cầu khấn tương tự những người cầu kinh các mặt kia. Ở góc đông-nam, thần Hỏa thiên Agni ngồi trên lưng một con tê ngưu đặc thù của Champa và Campuchia. Ở gốc đông bắc, thần Đại tự tại thiên Isana, một dạng tối cao của Siva, ngồi theo thế rajalilasana trên một con bò, tay cầm một cái đinh ba trisula,cạnh một người cầu kinh. Ở góc tây-nam, chỉ còn một nhân vật quì gối, hai tay giơ lên, có thể là thần La sát thiên Nirriti, chiếm chỗ vahana là một á thầnyaksa. Ở góc tây-bắc, thần Phong gió Vayu cũng ngồi trên lưng một con ngựa, thay vì một con linh dương, tay cầm một một cây cờ dhvaja, trước hai người cầu kinh chen nhau trong một không gian tương đối chật hẹp.
 
  


Khảo sát phần trên đế chóp, ở bốn mặt có bốn vị đại thần đạo Hindu ngồi trong bốn hốc tường, xung quanh có hình hoa nội tiếp trong một khung vuông. Ở mặt đông là thần Siva có búi tóc những nhà tu hành khổ hạnh, một tay cầm một cái đinh ba trisula, tay kia một cái đuổi ruồi. Ở mặt tây là một vị thần có vẻ giận dữ , một tay cầm một cái gì giống như một đầu lâu, tay kia một cái trống con, có thể là thần Đại thiên Mahadeva, cũng có thể là một dạng kinh khủng của thần Siva là Rudra hay Bhaivara. Ở mặt nam, thần Brahma dễ nhận diện với bốn đầu nhưng chỉ thấy có ba. Ở mặt bắc, thần Visnu có bốn tay cầm một cái chùygada, một cái vỏ sò shanka, một trái đất bhami và một cái dĩa cakra. Nhờ những biểu hiệu trên mình hay mang trong tay, nhờ các vật cưỡi vahana, các nhà khảo cứu đã xác định được cá tính ít nhất của ba trong tám các dikpala trên bệ thờ. Tuy nhiên, họ chưa biết được tường tận bản chất và vị trí ít nhất của hai vị thần phía đông và phía tây trong công trình. Khảo sát những hình tượng tương tự ở Java, họ thấy khó gắn liền chúng với một truyền thống nầy hay một truyền thống khác. Một điều chắc chắn là phong cách và vị trí của chúng đã chứng minh rõ ràng ảnh hưởng hàm súc nghệ thuật Java lên nghệ thuật Champa thế kỷ 10(7). Mặt khác, dựa lên phong cách thể hiện như thân hình mập mạp, mặt người thô nặng, khuôn mặt bầu bĩnh, đôi môi dày, râu mép ngắn, mái tóc xoắn, đôi mắt mở lớn có con ngươi, hàng lông mày rậm nối liền nhau, đằng kia kiểu thức văn hoa xoắn xít, thủ pháp điêu khắc hình khối mạnh mẽ, tả thực,...là những đặc điểm một tác phẩm có niên đại đầu thế kỷ 10, thuộc giai đoạn muộn phong cách Đồng Dương (7).

Như vậy, đế chóp Văn Trạch Hòa đã góp công vào việc học hỏi những dikpala, trở nên một yếu tố chủ yếu khảo cứu về những thiết bị thờ cúng. Trong cuộc Triển lãm "Điêu khắc Champa" ở Paris (7), một góc lớn đã dành cho những dikpala mà ban tổ chức đã chịu khó đi lượm lặt khắp nơi ở Việt Nam để trưng bày vào một chỗ. Thành thử, dù gián tiếp và chỉ trong tinh thần, đế chóp Văn Trạch Hòa, xuất phát từ Phong Điền, đã hiện diện ở kinh đô ánh sáng, góp phần làm lan tỏa nghệ thuật Chăm và trở thành đề tài khảo cứu cho những thế hệ mới. Cách đây năm năm, tôi và nhà tôi đi khắp miền Nam, từ Quảng Nam đến Bình Thuận, viếng thăm hầu hết những di tích Champa đã được kê khai. Gần đây, theo học ở Paris những lớp dạy về nghệ thuật Chăm do Hội Những người Bạn Viễn Đông AFAO tổ chức, theo dõi cuôc hội thảo "10 năm thành lập hội SACHA" khảo cứu về Champa cổ (14-15.10.2005) ở Viện Bảo tàng Cernuschi, tham dự ngày Văn minh Chăm nhân 100 năm phát hiện và nghiên cứu (07.12.2005) cùng cuôc triển lãm "Điêu khắc Champa" (10.10.2005 - 09.01.2006) tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật Á Đông Guimet, vốn nhạy cảm với văn hóa Việt Nam, tôi thấy cần phải tìm hiểu sâu rộng hơn về nghệ thuật Champa. Sinh và sống cả thời tuổi trẻ ở làng Mỹ Cang, huyện Phong Điền, tôi không khi nào để ý đến các di tích Chăm hiếm quý đầy dẫy trong vùng đã và đang được khai quật. May mắn thường hay đến với những ai khích động nó : về thăm quê năm 2005, tôi được gặp anh Nguyễn Thế, nhân viên văn hóa huyện Phong Điền. Anh đưa tôi đi xem và giải thích tường tận đế chóp Văn Trạch Hòa hiện được trưng bày ở Viện Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên ở Huế. Hơn nữa, anh chịu khó đưa tôi về Phong Điền xem bức trán cửa dựng trong sân chùa Ưu Đàm. Tôi tưởng hai di tích nầy cần được giới thiệu mặc dầu tôi không chuyên khảo cứu về điêu khắc Chăm.
Tin sau cùng hè 2008: Chùa Ưu Đàm được trùng tu, trán cửa Chăm bị giải toả, không biết được phục chế ra sao và di chuyển đi đâu.
Nghiên cứu Huế, Tập 6 (2008) trang 342-349

1- Léopold Cadière, Monuments et souvenirs chams du Quảng Trị et du Thừa ThiênBEFEO V (1905) 192
2- Henri Parmentier, Inventaire archéologique de l'Indochine. Monuments cams de l'AnnamPEFEO XII (1909) 429 ; (1918) 517-9
3- Trần Kỳ Phương, Phù điêu Hộ Thế Bát Phương Thiên của đế chóp tháp Vân Trạch Hòa và hình tượng Hộ Thế Phương Thiên trong điêu khắc Champa, Khoahọc và Công nghệ ThừaThiênHuế (3) 33 (2001) 84-98
4- Tran Thuy Diem, Le piédestal de Van Trach Hoa. La découverteLettre de SACHA 10 (2003) 3
5- Jean Baptiste, Le piédestal de Van Trach Hoa. Présentation généraleLettre de SACHA 10 (2003) 4-6 ; Le piedestal de Van Trach Hoa : un bali-pitha d'un type inédit. Notes sur l'iconographie des dikpala au ChampaArts Asiatiques 58 (2003) 168-76
6- Trần Kỳ Phương, Di tích mỹ thuật Champa ở Thừa Thiên HuếNghiên cứu và Phát triển (3) 41 (2003) 51-60
7- Jean Baptiste, Gardiens de l'espace (dikpala) trong La sculpture du Champa, Musée national des Arts asiatiques Guimet, Paris Exposition 10.10.2005-09.01.2006, 276-81
8- Vo Quang Yen, Une re-découverte : le tympan de Uu DiemLettre de SACHA 12 (2006) 19-22

© http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Võ Quang Yến