-Tại Hà Giang vào cuối những năm 80:Không rõ bên nào chủ động trước nhưng 2 đơn vị lính của phía Trung Quốc và Việt Nam tại điểm chốt tiền tiêu đã thỏa thuận ngầm với nhau là thôi không bắn nhau nữa. Hai bên đã chán cảnh bắn nhau, chém giết nhau…
- Một nhịp cầu hữu nghị tình cờ được xây lên:Từ chỗ hai
bên căng thẳng rình bắn nhau từng giây từng phút, lính 2 trạm chốt này đêm đêm
đã bí mặt gặp nhau, giao lưu nhảy múa, hát hò và tặng thuốc lá, thuốc lào và nhu
yếu phẩm cho nhau ?
Phạm Viết Đào.
P.V.Đ:Thưa anh, được biết anh là một
trong số ít những nhà văn có mặt tại Hà Giang giai đoạn 1984-1985; hồi đó anh có
mặt ở Hà Giang với nhiệm vụ gì vậy?
NV Đào Thắng: Hồi đó tôi tham gia đoàn
làm phim tài liệu của Xưởng phim quân đội có mặt tại Hà Giang để ghi lại những
ảnh của của mặt trận này. Tôi với tư cách là biên kịch, anh Nguyễn Đức Giảng là
đạo diễn, anh Lê Hợi là quay phim. Chúng tôi có mặt tại Hà Giang từ tháng
4/1984…
P.V.Đ: Có nghĩa là anh có biết và quay
được hình ảnh của trận đánh ác liệt xảy ra ngày 12/7/1984?
NVĐT: Chúng tôi có biết và ghi lại được
một số hình ảnh. Hình ảnh đó sau này được sử dụng trong các bộ phim như: Đồng
Văn tháng 5/1984, phim được Giải nhất của Bộ Quốc phóng trong năm; Thị xã yên
tĩnh-Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam; Giữ đất giải của Bộ Quốc phòng;
Nhịp sống mặt trận…
Tôi nhớ hồi đó khi Đoàn làm phim được
điều động lên tham gia mặt trận này, có một vị Tùy viên văn hóa Liên Xô lúc đó
đề nghị theo Đoàn làm phim và ông ta đã cùng chúng tôi lên tận Hà Giang để chứng
kiến những gì xảy ra tại chiến tuyến này. Hồi đó có chuyên gia quân sự Liên Xô
tham gia chiến tuyến này. Phiên dịch cho vị Tùy viên văn hóa này là dịch giả
Thái Hà, người dịch Những người thích đùa và một thời gian phụ trách Tạp chí
Văn học nước ngoài.
Vị Tùy viên văn hóa này còn đòi theo
chúng tôi lên tận chốt nhưng chúng tôi không đồng ý vì nguy hiểm; ông ta đã sửng
cồ lên với chúng tôi, chán không được đi theo Đoàn làm phim, ông ta đã mượn rượu
để mắng chúng tôi.Còn chúng tôi, Đoàn làm phim thì theo các chiến sĩ lên tận
chốt để quay lại những hình ảnh sinh hoạt, chiến đấu của bộ đội ta, có những
cảnh chúng tôi đặt máy quay chỉ cách vị trí H1 của địch có mấy chục
mét…
PVĐ: Từng chứng kiến những trận đánh ác
liệt chiến tuyến Thanh Thủy Hà Giang, hiện anh còn lưu giữ được những ký ức gì
về những trận đánh ác liệt ở đây?
NVĐT: Cách đây 2 năm, tôi và Nhà thơ Hữu
Thỉnh có đến thăm Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, ông có nhắc chúng tôi là Hội Nhà
văn nên tổ chức viết về cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, nếu không viết,
hậu thế sẽ không nhớ tới các sự kiện lịch sử này. Ông cho biết, phía Trung Quốc
người ta đã viết và xuất bản nhiều, chính ông đã được đọc một số quyển sách do
phía Trung Quốc viết theo cách nhìn nhận và đánh giá của họ.Ông đã đưa vấn đề
này ra trao đổi với các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong các dịp làm việc với họ;
họ đã thanh minh rằng những quyển sách này viết ra không do sự chỉ đạo của lãnh
đạo trung ương; do các địa phương tự ý xuất bản…
P.V.Đ: Thế Nhà văn có ý định sẽ một lúc
nào đó viết lại những điều mắt thấy tai nghe về những trận đánh ác liệt tại
chiến tuyến Hà Giang ?
NVĐT: Tôi đang trăn trở điều này, trong
cuốn tiểu thuyết Dòng sông mía, ( Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn ) tôi
đã đưa một số chi tiết của cuộc chiến ác liệt tại Hà Giang vào trong tác phẩm
của mình. Đó là chi tiết, người mẹ tắm rửa cho thi hài của đứa con là liệt sĩ
Các được đưa từ mặt trận trở về, thi thể của anh đã có dòi…Đó là chi tiết hoàn
toàn có thật mà chính mắt tôi đã chứng kiến tại mặt trận Hà Giang…
P.V.Đ: Anh có thể kể thêm về các chi
tiết về cuộc chiến ở mặt trận này mà anh còn bị ám ảnh nhất?
NVĐT: Điều tôi ám ảnh nhất đó là hình
ảnh và những kỷ niệm về Đại tá Trần Tất Thanh, vị Sư trưởng của Sư đoàn 31 bộ
binh, Sư đoàn có tên là Tà Xanh; ông là người đã trực tiếp chỉ huy những trận
đánh làm thay đổi cục diện chiến trường tại chiến tuyến Vị Xuyên Hà
Giang…
Như anh biết, sau chiến dịch phản công
đánh chiếm lại cao điểm 1509 ngày 12/7/1985 , bên ta tung ra 6 trung đoàn của
các 4 sư đoàn thiện chiến, áp dụng chiến thuật biển người của Trung Quốc bị thất
bại và thương vong lớn. Tướng Hoàng Đan trước khi xuất binh đã đến tận các trung
đoàn úy lạo quân sĩ: Các đồng chí chuẩn bị thật nhiều giây thừng để tóm bắt thật
nhiều bọn bành trướng mang về đây lĩnh thưởng ? Phải làm cho Trung Quốc biết thế
nào là sức mạnh Việt Nam.
Cuộc phản công thất bại và chúng ta
không những không giành lại được 1509 mà còn mất thêm một số cao điểm. Trước
tình thế đó, Bộ Quốc phòng đã thay tướng, điều Tướng Nguyễn Hữu An, một chiến
tướng tài danh, từng chỉ huy một trung đoàn đánh Điện Biên Phủ năm xưa lên chỉ
huy mặt trận. Sư đoàn 31 là sư đoàn bộ bộ binh của Đại tá Trần Tất Thanh đang
đóng quân bên Lào được điều về để nhận nhiệm vụ tại chiến trường khốc liệt này ?
Đại tá Trần Tất Thanh có kể cho tôi một chi tiết cảm động: Khi Sư đoàn Tà Xanh
rút khỏi Lào để bổ sung cho chiến tuyến Hà Giang, nhiều bà con Lào đã lưu luyến
đi theo bộ đội Việt Nam 3 ngày để tiễn chân và bày tỏ tình cảm quý
mến.
Khi Sư đoàn 31 được điều lên Hà Giang,
chính BBC đã đưa tin ngay: Con hổ Tà Xanh của đại tá Trần Tất Thanh sắp lến
chiến trường Vị Xuyên; hãy coi sẽ bị gãy răng ở chiến trường toàn đá này...Kết
cục Con hổ Tà Xanh không bị gãy răng mà đã làm cho quân Trung Quốc liểng
xiểng.
Khi Tướng Nguyễn Hữu An và Sư đoàn 31 Tà
Xanh được điều động về Hà Giang đã tạo nên những thay đổi về cục diện chiến
trường. Chúng ta đã đẩy lùi và chiếm lại một số cao điểm bị Trung Quốc chiếm
giữ. Tôi không nhớ chi tiết các cao điểm nào nhưng Đoàn làm phim đã lên tới Cao
điểm H2, H3, là cao điểm đối địch với cao điểm H1, là cao điểm bị Trung Quốc
chiếm.
Tướng Nguyễn Hữu An và Sư đoàn Tà Xanh
dưới quyền chỉ huy của Đại tá Trần Tất Thanh đã thay đổi cách đánh, dùng bộ đội
đặc công áp dụng chiến thuật đánh công kiên của trận Điện Biên Phủ khi xưa, đánh
nhỏ đánh chắc để tránh thương vong do phi pháp của địch rất mạnh gây cho ta.
Sư trưởng Trần Tất Thanh, một vị chỉ huy
quả cảm và rất được lòng binh sĩ vì ông rất hiểu tâm lý binh sĩ. Việc đầu tiên
của ông là bắt thay đổi toàn bộ tên gọi một số vị trí được bộ ta đặt tên trước
đó tỷ như: Suối cô hồn, Cối xay thịt, Thung lũng tử thần, Cửa tử…yêu cầu bộ đội
gọi tên thành những tên mới, ví như: Ngã ba kiên cường, Cao điểm anh hùng, Suối
tương lai…
Khi đưa bộ đội lên, ông bố trị bộ đội
thành tổ 3 người lên đào phá đá thành những hàm ếch sâu trong lòng đá để làm nơi
ẩn nấp, đào xây dựng các chiến hào trên vách đá để đi lại hạn chế phi pháo
địch…Đồng thời ông lệnh cho quân sĩ giữ nghiêm quân kỷ, không để bộ đội để tóc
dài. Vì ở ngoài mặt trận có 2 việc lính ta rất kiêng: cắt tóc và trả lời phóng
vấn báo chí, đoàn làm phim; nhiều lính sau khi cắt tóc, hay gặp báo chi hay bị
tử thương…Sư trưởng Trần Tất Thanh đã buộc lính thay đổi hủ tục đó.
Bộ đội giữ chốt phải nói là vô cùng gian
khổ vì phải phá đá ra để làm hầm không chỉ để trú ẩn trong đó mà cả nơi ăn nghỉ
đã đành, phải chịu đựng biết bao thiếu thốn…Bộ đội nằm trong hầm đá ngủ nhiều
ngày nên thường bị bệnh cứng khớp, vì ngủ trực tiếp trên sàn đá nên mất nhiệt.
Trời Hà Giang mùa dông có khí xuống tới 4 độ. Nhiều bệnh binh được khiêng ra từ
chốt người cứ bị co quắp không duối ra được kể cả khi khiêng tới bệnh viện. Sư
trưởng đã tìm cách chuyển gỗ, ván lên để kể làm giường cho quân sĩ. Rồi thì đã
lên chốt rồi, chuyện tắm rửa là một việc làm kỳ công vì trên cao làm gì có nước.
Hôm đoàn làm phim lên chúng tôi đã chứng kiến một tiểu đoàn trưởng 3 tháng canh
chốt được bố trí thay phiên trở về tuyến sau để được tắm. Anh biết bộ đội giữ
chốt tắm như thế nào không? Lính chiến trường gọi là tắm khô, không tắm bằng
nước mà tắm bằng cồn… Lấy cồn tẩm bông lau người, sĩ quan cấp tiểu đoàn phải 3
tháng mới tắm 1 lần, không biết lính thì được mấy lần.
Sư trưởng Trần Tất Thanh kể cho tôi một
trận chiến đấu vô cùng oai hùng và cảm động, một trận đánh mà ông đã mất quá
nhiều nước mắt. Phía Trung Quốc đã sử dụng pháo giã ác liệt vào trận địa phòng
ngự của ta suốt từ 6 giờ đến 10 giờ đêm; pháo, cối của chúng cứ giã liên tục đạn
nố chớp chớp liên hồi y như trong các trận đánh của các trò chơi điện tử bây
giờ. Đứng tuyến sau nhìn thấy cảnh quân mình oằn lưng chịu đòn pháo địch nước
mắt ông tràn trề. Thế nhưng khi pháo giặc im. chùng xua bộ binh địch lao lên
đánh chiếm trận địa phòng ngự của ta thì lại súng của quân ta chớp lóe rền vang
từ trong các hầm cố thủ và quân địch lại bị đẩy lui. Nhìn cảnh đó ông lại nước
mắt lưng tròng vì sung sướng: vừa thương quân sĩ vừa cảm phục tinh thần ngoan
cường chịu đựng bảo vệ trận địa…
Có thể nói sau trận 12/7/1984 quân ta và
quân địch không tổ chức những trận đánh lớn cấp trung đoàn mà luôn giằng co nhau
những trận đánh trên từng ngọn đồi điểm chốt. Chúng tôi đã vác máy quay lên tận
cao điểm H2 để hướng ống kính máy quay lên cao điểm H1 là cao điểm lính Trung
Quốc chiếm giữ. Bộ đội đã cản không cho chúng tôi lên vì rất nguy hiểm, chúng
tôi vẫn lên vì chúng tôi cũng từng là lính chống Mỹ nên có đủ kinh nghiệm tránh
đạn của địch.
Tôi còn nhớ khi Đoàn làm phim tập kết
vào cái hang lớn gọi là Hang Mán, phải qua một chiếc cầu bắc bằng cây; khi qua
đoạn suối này phải chạy thật nhanh, nếu chạy không nhanh thì sẽ ăn đạn cối của
Trung Quốc. Thành ra khi đi quan đoạn suối này giống như trẻ con chơi trò ú tim.
Chuẩn bị từng người một từ bên này nhanh chóng lao qua bên kia. Khi chúng tôi
lao qua được vào trong hang thì pháo cối dồn dập nổ, chỉ chậm vài giây là coi
xong. Vào đến trong hang lính mới phổ biến kinh nghiệm cho chúng tôi: Các chú
nếu muốn tránh bị phi pháo địch bắn thì phải mặc áo bỏ ngoài quần và đừng mặc áo
sĩ quan. Nếu lính Trung Quốc nhìn thấy mặc áo quần sĩ quan thì chúng nổ súng
ngay. Còn áo để ngoài quần là quy ước ngầm hiểu đó là lính hậu cần.Khi thấy lính
để áo ngoài quần thì cả ta cũng không bắn lính Trung Quốc và lính Trung Quốc
cũng không bắn ta. Tóm lại đó là một sự thỏa thuận ngầm kỳ ngôi ở nơi cửa
tử.
Còn lên đến điểm cao H2 thì có thể nghe
rõ bước chân di chuyển của lính Trung Quốc ở điểm cao H1 bên này nghe rõ tiếng
trò chuyện của phía bên kia…
P.V.Đ: Thế lên đến H2, các anh có quan
sát được gì không?
NVĐT: Có một chuyện thú vị này bây giờ
tôi tiết lộ với anh, chính từ điểm cao H2, này một nhịp cầu “ đình chiến “ được
thiết lập, mà những nhịp cầu này lại do chính những người lính xây cất
lên.
Hồi đó cả một chiến trường dài trên chục
km bộ đội ta mệnh danh là Lò Vôi thế kỷ vì núi toàn đá vôi. Do pháo cối của hai
bên bắn nhiều nên lửa đạn đã biến cả những giải đá xanh dài trở nên trắng xóa vì
đá bị biến thành vôi. Nghĩa là hai bên cứ đánh nhau ác liệt giằng co không ai
chịu thua ai đến một thời điểm thì chính người lính Trung Quốc thấy chán và vô
nghĩa. Không rõ bên nào chủ động trước nhưng 2 đơn vị lính của phía Trung Quốc
và Việt Nam tại điểm chốt tiền tiêu đã thỏa thuận ngầm với nhau là thôi không
bắn nhau nữa. Vì như thế vô nghĩa. Phía chúng ta vì bao vệ biên cương của tổ
quốc nên chấp nhận hy sinh là có ỹ nghĩa còn phía Trung Quốc người lính ngộ ra
họ là công cụ vô nghĩa và độc ác của nhà cầm quyền.
Từ chỗ hai bên căng thẳng rình bắn nhau,
lính 2 trạm chốt này đêm đêm đã bí mặt gặp nhau, giao lưu nhảy múa, hát hò và
tặng thuốc lá, thuốc lào và nhu yếu phẩm cho nhau. Phía quân ta tặng quân Trung
Quôc thuốc lào, còn lính Trung Quốc tặng ta thuốc lá Đại Thiền Môn, bánh kẹo
thậm chí cả bia rượu. Việc này phía ta đã nhanh chóng báo cáo về cho Tổng cục
chính trị những diến biến bất thường của chiến trường Hà Giang. Để có bằng chứng
chắc chắn, Tổng Cục chính trị đã bố trí để anh Việt, sau này về công tác ở Bảo
tàng quân đội mang máy ảnh, máy ghi âm để bí mật ghi lại cảnh gặp gỡ giao lưu
giữa lính ta và lính Trung Quốc trên cao điểm H 1, H 2 để mang về báo cáo với Bộ
Quốc phòng. Nghe nói sau vụ này, Tướng Võ Nguyên Giáp đã sang Trung Quốc để điều
đình để 2 bên thôi không đánh nhau nữa vì lãnh đạo có muốn đánh quân cũng đã
chán rồi ?
Tóm lại những điều tôi đã chứng kiến tại
Hà Giang còn nhiều chuyện bi tráng lắm?
P.V.Đ: Thế từ sau khi 2 nước bình thường
hóa quan hệ, anh có quay lại thăm Hà Giang lần nào không ?
NVĐT: Có năm 2008, tôi có trở lại cao
điểm H1, H 2 này, phía ta thì bỏ lại chiến trường xưa cỏ mọc um tùm, còn Cao
điểm H1 Trung Quốc vẫn giữ, thậm chí còn gia cố chắc chắn thêm và có lính canh
giữ.
P.V.Đ: Thế còn những chiến binh năm xưa,
về vị Sư trưởng Trần Tất Thanh, ông ta có được phong anh hùng không
?
NVĐT: Sư trưởng
Trần Tất Thanh sau được phong Trung tướng và đảm nhận trọng trách Tư lệnh Quân
khu 2; đáng tiếc ông đã bị hy sinh trong một tại nạn máy thảm khốc tại Lào vào
ngày 25/5/1998; cùng chịu tai nạn với ông là Đoàn tướng lĩnh cấp cao gồm 20 sĩ
quan trong đó có Tổng tham mưu trưởng, Trung tướng Đào Trọng Lịch, 5 vị Đại tá
cấp Cục, Vụ…Trong tại nạn này có một vị may mắn thoát nạn đó là Tư lệnh quân khu
4, ông có danh sách trong Đoàn nhưng ông ở lại không đi nên thoát. Ông này sau
đó cũng lại bị tử nạn trong vụ tai nạn may bay ở Hòn
Mê.
Điều bí ẩn xót xa là: những người bị tử nạn trong đó
nhiều sĩ quan từng là chiến binh chống bành trướng Trung Quốc ngoan cường, từ
Tham mưu trưởng Đào Trọng Lịch, ông đang ngấp nghé vị trí Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng đến Tướng Trần Tất Thanh ? Còn tôi là người chứng kiến những trận đánh Hà
Giang thì thấy phần lớn những đơn vị tham gia những trận ác chiến đều là lính
Thanh Nghệ? Chả nhẽ vì thế mà Tư lệnh Quân khu IV bị oan gia vì hăng hái mộ
nhiều quân đánh Trung Quốc?
P.V.Đ. Hội Nhà văn đang tổ chức Đại hội,
được biết, nhà văn Đào Thắng được rất nhiều hội viên đề cử vào Ban chấp hành;
riêng chủ Blog này cũng sẽ giành 1 phiếu bỏ cho anh và mong muốn vận đông các
nhà văn, nhất là những người yêu mến trang Blog này sẽ bỏ phiếu ủng hộ
nhà văn Đào Thắng. Xin hỏi, nếu anh được bầu vào Ban chấp hành, anh sẽ tích cực
tham gia mảng công tác nào của Hội?
NVĐT: Vốn xuất thân là người lính và bao
nhiêu năm đau đáu với các vấn đề tài chiến tranh và số phận của người lính, ví
người lính gắn với số phận của dân tộc. Nếu được bầu vào Ban chấp hành, tôi sẽ
tham gia Ban sáng tác của Hội để làm sao thúc đẩy, lôi kéo các nhà văn đầu tư
cho mảng đề tài chiến tranh cách mạng, nhất là cuộc chiến tranh biên giới phía
bắc hiện đang còn là mảng trắng.
Lịch sử từng ghi danh những Ngô Quyền,
Lê Đại Hành, Lý Thướng Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trần
Quốc Toản, Lê Lợi, Trẫn Nguyên hãn, Nguyễn Trãi, Quang Trung .v.v. những danh
nhân mà nếu không có họ không có giang sơn xã tắc của chúng ta bây
giờ.
Mảng đề tài chiến tranh nhất là cuộc
chiến tranh biên giới phía bắc bị bỏ quên lâu lắm rồi, nhất thiết phải viết,
phải trả lại sự thật cho lịch sử đau thương và bi tráng của dân tộc…Tôi nghĩ đó
là một việc rất lớn và Ban chấp hành Hội Nhà văn kỳ này nên tích cực bắt tay vào
nhiệm vụ khó khăn này.
P.V.Đ: Xin trân trọng cảm ơn nhà văn Đào
Thắng và chúc anh thành công.
P.V.Đ
TRÍCH NGANG MỘT VÀI NÉT TIỂU SỬ VĂN
CHƯƠNG CỦA NHÀ VĂN ĐÀO THẮNG:
-Sinh năm 1946, vào bộ đội từ 9/1965
trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường Khu 4, Mặt trận đường 9, Quảng Trị,
Trung Lào;
-
Học viên Trường viết văn Nguyễn Du khóa 1;
-
2002 là Chánh văn phòng Hội Nhà văn VN hiện nay là chuyên viên Ban sáng tác Hội
Nhà văn VN.
Tác phẩm đã xuất bản:
-Điểm cao thành phố-Tiểu thuyết năm
1982; Nước mắt -Tiểu thuyết 1991; Dòng sông mía-Tiểu thuyết 2004, tái bản 2004,
2005,2006; Đất xanh –Tiểu thuyết 2006; Dọc miền trung-Tiểu thuyết 208; Xứ sở
Long- Tiểu thuyết 2010…
Các giải thưởng đã được
nhận:
-Giải thưởng văn học đề tài Quốc phòng
an ninh Hội Nhà văn Việt Nam 1991-1993; Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng (
1989-1994 ) với tiểu thuyết Nước mắt; Giải thưởng Điện ảnh 5 năm Bộ Quốc phòng
với các bộ phim: Thị xã yên tĩnh ( 1989 ), Nhịp sống mặt trận ( 1989 ), Chào nhé
Apsara ( 1987 ); Giải A cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam
( 2003-2005 ) với tiểu thuyết Dòng sông mía…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét